1.Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về người lập di chúc
Pháp luật quốc tế hay pháp luật Việt Nam đều xác định rõ, người lập di chúc chỉ có thể là cá nhân. Điều này được lý giải rằng “xã hội suy cho đến cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”[1]. Theo quan điểm này, số lượng các chủ thể có thể thay đổi, biến chuyển để phù hợp với từng loại quan hệ nhưng chủ thể duy nhất có thực là con người. Đồng quan điểm khi nhìn nhận về vấn đề này, khi đề cập tới tổ chức nói chung và pháp nhân nói riêng, thuyết giả định (được các luật gia Tây Âu ghi nhận và người giải thích cũng như tán đồng nhất là Laurent – luật gia người Bỉ) đã chỉ ra, pháp nhân là một chủ thể giả định[2]. Các hoạt động của pháp nhân đều thông qua cá nhân. Đối với hoạt động lập di chúc, việc định đoạt tài sản luôn gắn liền với yếu tố ý chí của cá nhân. Điều này càng khẳng định, ý chí phải được gắn với chủ thể có thực. Còn đối với các chủ thể khác, sẽ rất khó để chúng ta có thể xác định được yếu tố ý chí chung cũng như sự thống nhất ý chí khi định đoạt tài sản chung cho người khác.
Từ xưa tới nay, hầu hết các văn bản quy định về thừa kế của Việt Nam đều khẳng định,di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Tuy nhiên, để di chúc hợp pháp, quy định của pháp luật còn đặt ra nhiều điều kiện, yêu cầu người lập di chúc phải thoả mãn. Đây là quy định thể hiện sự can thiệp, điều chỉnh bởi ý chí của Nhà nước nhằm cân bằng nhu cầu để lại tài sản của một người cho người khác sau khi chết và quyền, lợi ích của các chủ thể khác có liên quan tới quá trình thừa kế.
Điều kiện về người xác lập giao dịch nói chung và người lập di chúc nói riêng được Bộ luật Dân sự(BLDS) năm 2015 quy định tại điểm a khoản 1 Điều 117 như sau: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Theo quy định này, người xác lập giao dịch phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Đối với quá trình lập di chúc, ngoài việc tuân thủ quy định chung về người xác lập giao dịch, pháp luật đặt ra các quy định riêng nhằm khẳng định sự điều chỉnh tính đặc thù của quan hệ thừa kế. Cụ thể, Điều 624 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Quy định này đã chỉ rõ, người lập di chúc luôn được pháp luật xác định chỉ có thể là cá nhân và cá nhân đó cũng phải thỏa mãn điều kiện về năng lực pháp luật, năng lực hành vi khi lập di chúc.
Để tham gia vào một giao dịch dân sự, cá nhân có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch hoặc thông quan cơ chế đại diện. Tuy nhiên, đối với trường hợp lập di chúc, cá nhân không thể thông qua cơ chế đại diện để xác lập loại giao dịch đặc biệt này. Điều này được lý giải rằng, đại diện là “việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”[3]. Với bản chất này của đại diện, nếu chúng ta đưa vào áp dụng trong di chúc sẽ không thể phù hợp ở chỗ: (i) việc nhân danh và vì lợi ích của cá nhân – người để lại di sản rất khó xác định trên thực tế. Bởi vì, hoạt động lập di chúc chỉ mang lại lợi ích tinh thần cho người để lại di sản. Nên chỉ bản thân cá nhân đó mới có thể hiểu được một cách rõ ràng, những lợi ích tinh thần mà mình cần hoặc mong muốn đạt được; (ii)di chúc là loại giao dịch đặc thù, chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết đi. Do đó, khi cá nhân lập di chúc chết, việc nhân danh và vì lợi ích của họ cũng không còn ý nghĩa trên thực tế. Vì vậy, pháp luật không thừa nhận cơ chế đại diện trong hoạt động lập di chúc.
Điều 625 BLDS năm 2015 quy định về người lập di chúc như sau:
“1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”.
Theo quy định này, hai nhóm cá nhân được luật cho phép thực hiện quyền lập di chúc bao gồm: (i) Người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép[4]; (ii) Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Rõ ràng theo sự ghi nhận này, người lập di chúc và người xác lập giao dịch nói chung đã được khoanh vùng và xác định theo phạm vi khác nhau. Sự cụ thể hoá quy định về người lập di chúc theo quy định của pháp luật hiện hành được xem xét dựa trên một số khía cạnh sau:
– Về độ tuổi
Quy định về độ tuổi của người lập di chúc, nội dung này phản ánh sự dẫn nhập giữa quy định về năng lực của chủ thể cá nhân và mức độ tham gia giao dịch mà pháp luật quy định. Theo đó, người thành niên được xác định là người từ đủ mười tám tuổi trở lên[5]. Về nguyên tắc, người thành niên là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên được tham gia xác lập mọi giao dịch dân sự, trong đó có việc lập di chúc.
Ngoài việc ghi nhận cho cá nhân đủ mười tám tuổi trở lên được lập di chúc, BLDS năm 2015 cũng quy định cho phép người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi thực hiện quyền lập di chúc. Quy định này đã tồn tại trong các văn bản quy phạm pháp luật trước đó,nhưng BLDS năm 2015 đã có những thay đổi để phù hợp hơn. Thay vì chỉ cần sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho cá nhân từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc như các Bộ luật trước, khoản 2 Điều 625 BLDS năm 2015 quy định “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”. Điều này khẳng định một cách rõ ràng hơn, rằng cha, mẹ hoặc người giám hộ không được can thiệp vào nội dung di chúc của người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi. Quy định này thể hiện được sự phù hợp khi xét về bản chất của di chúc, vì nội dung của di chúc phải là sự thể hiện ý chí của người thiết lập ra nó, cho nên, quy định sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc và không được can thiệp vào nội dung của di chúc là hoàn toàn phù hợp.
– Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
Nhận thức được hiểu là quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các quy trình như tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lý luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ. Như vậy, không phải tự nhiên mà pháp luật ở mỗi quốc gia lại quy định cá nhân cần phải đạt đến một độ tuổi nhất định mới có quyền lập di chúc. Vì chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định, một cá nhân mới đạt đến “độ chín” về nhận thức. Do đó, việc lập di chúc luôn cần phải đảm bảo được yếu tố độ tuổi để khẳng định sự trưởng thành về nhận thức cá nhân. Khi đó, việc thực hiện các hành vi trên cơ sở nhận thức sẽ đảm bảo được tính đúng đắn, trung thực, khách quan.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc một người đạt độ tuổi trưởng thành cũng chưa hẳn đã là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Nhận diện được vấn đề này, nhà làm luật đã ghi nhận trong BLDS năm 2015 những quy định mang tính loại trừ về người xác lập giao dịch như sau: “Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các Điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này”.Với quy định này, những người rơi vào trạng thái bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người không có hoặc không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Theo cách quy định này, khi cá nhân thuộc các trường hợp được quy định tại các Điều 22, 23 và 24 BLDS năm 2015 tham gia vào giao dịch sẽ cần đến người đại diện hoặc sẽ bị hạn chế ở một vài loại giao dịch.
Khi nhìn nhận ở khả năng nhận thức, điều khiển hành vi đối với việc lập di chúc, BLDS năm 2015 xác định người được lập di chúc như sau: Về nguyên tắc, người thành niên có quyền lập di chúc. Tức là, cá nhân đủ mười tám tuổi sẽ có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, cá nhân muốn lập di chúc còn phải thỏa mãn điều kiện: minh mẫn, sáng suốt, không bị cưỡng ép, lừa dối, đe dọa. Như vậy, thông qua quy định này, pháp luật đã loại trừ chủ thể bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc những chủ thể gặp phải các vấn đề về nhận thức, trạng thái tinh thần không minh mẫn, sáng suốt. Đồng thời, khác với giao dịch thông thường, những người bị Tòa án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi vẫn có thể lập di chúc với những điều kiện nhất định.
Theo quy định tại Điều 625 BLDS năm 2015, yếu tố khả năng nhận thức và điều khiển hành vi được xem xét cụ thể đối với các cá nhân như sau:
Thứ nhất, đối với người thành niên
Độ tuổi thành niên ở Việt Nam được xác định là mười tám. Theo quy định tại Điều 625 BLDS năm 2015, người từ đủ mười tám tuổi sẽ được quyền lập di chúc nhưng phải thỏa mãn điều kiện: minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, cưỡng ép và đe dọa. Điều này khẳng định, độ tuổi của cá nhân chỉ là điều kiện cần để cho phép thực hiện quyền lập di chúc. Còn điều kiện đủ là cá nhân đó phải có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đối với người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi
Riêng đối với độ tuổi này, pháp luật không đặt ra quy định trực tiếp đến khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Vì sự hình thành bản di chúc của chủ thể này trên thực tế hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của cha, mẹ hoặc người giám hộ có đồng ý cho họ lập di chúc hay không. Ở quy định này, chúng ta có thể hiểu rằng trách nhiệm của người làm cha, mẹ hoặc giám hộ cũng được xác định gián tiếp trong việc đánh giá khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người lập di chúc.
Thứ ba, đối với người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
– Đối với người bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: Tuy không quy định cụ thể trong phần nội dung chế định liên quan tới di chúc, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 22 BLDS năm 2015, thì “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”, và khoản 2 Điều này quy định: “Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”. Như vậy, có thể nói rằng, người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự mình xác lập bất cứ loại giao dịch nào, mọi nhu cầu lợi ích liên quan tới người này sẽ thông qua người đại diện. Đối với việc lập di chúc, pháp luật đã quy định, quyền lập di chúc thuộc về cá nhân người có tài sản, nhưng người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự xác lập giao dịch, cũng không thể thông qua người khác để thỏa mãn nhu cầu lợi ích của mình về việc định đoạt tài sản bằng di chúc, do vậy, mọi “giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.
– Người bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015, người hạn chế năng lực hành vi dân sự là “người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”. Khoản 2 Điều này quy định: “Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác”.
Xét về bản chất, người hạn chế năng lực hành vi dân sự là người bị các chất kích thích tác động tới hệ thần kinh trung ương khiến họ bị ảnh hưởng về khả năng nhận thức, điều khiển hành vi dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Điều này làm ảnh hưởng tới đời sống của gia đình và vì vậy, pháp luật mới quy định quyền, lợi ích của những thành viên khác trong gia đình sẽ được bảo vệ khi yêu cầu Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi với họ. Các giao dịch không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, hoặc luật liên quan có quy định khác mà họ xác lập có thể bị tuyên bố vô hiệu (nếu có yêu cầu). Chúng tôi cho rằng, di chúc là loại giao dịch cần đến khả năng nhận thức, điều khiển hành vi một cách phù hợp của người lập ra nó và có hiệu lực khi người này chết đi. Trong khi đó, việc tuyên bố cá nhân hạn chế năng lực hành vi dân sự nhằm hạn chế việc xác lập các giao dịch có thể làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của các thành viên gia đình. Cho nên, di chúc do người bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự lập ra không nên bị coi là giao dịch vi phạm điều kiện về chủ thể xác lập giao dịch.
– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015 quy định: “Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”. Đây là quy định lần đầu tiên được ghi nhận trong BLDS năm 2015. Về nguyên tắc, các giao dịch của người này sẽ thông qua người giám hộ. Nhưng việc lập di chúc không thể thông qua cơ chế uỷ quyền, nên thông qua giám hộ trong trường hợp này cũng không có ý nghĩa. Trong khi BLDS năm 2015 cũng như các BLDS trước đó có đề cập tới người bị hạn chế về mặt thể chất và đối với việc lập di chúc quy định rằng: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”[6]. Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi đã “xuất hiện” trong phần chung BLDS năm 2015 nhưng không được đề cập tới tại phần di chúc. Điều này dễ gây ra nhầm lẫn trong cách hiểu và áp dụng.
2. Một số bất cập, hạn chế và đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về người lập di chúc
2.1. Qua những phân tích về quy định đối với người lập di chúc cho thấy, pháp luật đã khẳng định vai trò điều tiết các quan hệ thừa kế một cách rõ ràng nhưng không hoàn toàn làm mất đi quyền tự nhiên thuộc về mỗi cá nhân đó. Những quy định về độ tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người lập di chúc được ghi nhận khá chi tiết trong phần chung đối với giao dịch và phần riêng về di chúc. Việc ghi nhận này là cần thiết bởi vì:
– Về phía Nhà nước: Nhằm đảm bảo tính khách quan khi đóng vai trò điều tiết các quan hệ xã hội, việc quy định các vấn đề về người thừa kế mang lại sự ổn định, trật tự, xã hội hơn. Quy định về độ tuổi, khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của người lập di chúc một cách rõ ràng để: (i) đảm bảo quyền, lợi ích đặc biệt là lợi ích tinh thần cho chính họ trong việc thể hiện sự định đoạt tài sản của mình; (ii) sự định đoạt là trung thực với ý chí của họ; (iii) đảm bảo tính đặc thù của loại giao dịch là di chúc chỉ có hiệu lực khi người lập chết đi và sự phân chia di sản thừa kế theo di chúc ít gặp trở ngại nhất… Nhà nước mong muốn loại bỏ nhiều tranh chấp không đáng có. Điều này tạo ra sự công bằng, hợp lý đối với các chủ thể của quan hệ thừa kế.
– Về phía người lập di chúc, người thừa kế: Pháp luật khẳng định người lập di chúc phải là cá nhân có tài sản để lại và ý chí trong di chúc phải là ý chí của chính cá nhân đó. Điều này được lý giải rằng, cơ chế đại diện sẽ không tồn tại trong hoạt động lập di chúc và việc lập di chúc được kết luận mang lại lợi ích tinh thần cho người xác lập ra nó. Do đó, độ tuổi trưởng thành, khả năng nhận thức và thực hiện hành vi theo mong muốn của bản thân khẳng định sự chín chắn, thấu đáo trong suy nghĩ của người lập di chúc. Qua đó, người lập di chúc cũng đạt được những lợi ích chính đáng về mặt tinh thần khi thực hiện quyền lập di chúc để lại sự kế thừa tài sản của mình cho ai đó. Đồng thời, khi thực hiện quyền lập di chúc theo quy định của pháp luật, người lập di chúc được đảm bảo về niềm tin rằng, nội dung di chúc sẽ được thực hiện khi họ qua đời. Bên cạnh đó, nội dung của di chúc còn xác định quyền hưởng hoặc nghĩa vụ phải thực hiện đối với người thừa kế. Đây cũng là cơ sở để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của chính những người thừa kế với nhau hoặc với các chủ thể khác. Cho nên, quy định về năng lực của người lập di chúc càng khẳng định được vai trò khi thuyết phục các chủ thể liên quan tới chính bản di chúc đó.
– Về phía xã hội: Quy định của pháp luật về người lập di chúc thực sự đảm bảo các yếu tố tình và lý cho loại quan hệ di chúc mà một người trước khi chết mong muốn xác lập. Quy định này còn mang tới sự ổn định, trật tự xã hội rõ ràng khi cá nhân chết đi. Điều này khẳng định rõ hơn vai trò của Nhà nước khi điều chỉnh quan hệ thừa kế theo di chúc bằng pháp luật.
2.2. Mặc dù quy định của pháp luật về người lập di chúc có nhiều ưu điểm, nhưng một số quy định mới tại BLDS năm 2015 vẫn còn bất cập cần được hoàn thiện như sau:
Thứ nhất, về năng lực chủ thể lập di chúc
Quy định của BLDS năm 2015 ghi nhận điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và di chúc có phần khác nhau về năng lực chủ thể. Trong khi khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 quy định một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch là: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Theo quy định này, năng lực chủ thể xác lập giao dịch bao gồm năng lực pháp luật và hành vi đều được đề cập với tư cách là điều kiện bắt buộc để xác định hiệu lực của giao dịch, nhưng khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 chỉ đề cập tới năng lực hành vi và sự tự nguyện của người lập di chúc: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”. Sự thiếu sót tại Điều 630 BLDS năm 2015 khi quy định về điều kiện để di chúc hợp pháp hoàn toàn có thể lý giải theo hướng, di chúc là một loại giao dịch nên khi không quy định cụ thể sẽ được áp dụng quy định chung về giao dịch để xem xét. Tuy nhiên, vấn đề cần đặt ra là cả quy định phần chung và phần cụ thể đều không ghi nhận hậu quả pháp lý cụ thể khi giao dịch nói chung hoặc di chúc nói riêng vi phạm quy định về năng lực chủ thể xác lập.
Khoản 2 Điều 218 BLDS năm 2015 quy định: “Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”. Như vậy, khi định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung thông qua các loại giao dịch có thể xảy ra hai trường hợp: Một là, người định đoạt chỉ được định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Hai là, việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung có thể dựa trên thoả thuận hoặc pháp luật quy định. Tức là, xác lập các giao dịch định đoạt tài sản chung vẫn được chấp nhận khi có sự đồng ý của các đồng sở hữu. Điều này sẽ không có vấn đề gì bất cập nếu các chủ thể thực hiện đúng theo quy định. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại không ghi nhận hậu quả pháp lý để xử lý triệt để quy định về các trường hợp sau: (i) Người xác lập giao dịch nói chung định đoạt tài chung hoặc cả tài sản của người khác không dựa trên thoả thuận hoặc quy định của pháp luật. Giao dịch được xác lập sẽ vô hiệu toàn bộ hay một phần? Chúng tôi cho rằng, cần thiết phải có quy định bổ sung cho phần nội dung này; (ii) Người lập di chúc định đoạt tài sản chung hoặc của người khác, thậm chí định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung được sự đồng ý của các đồng sở hữu chủ. Về giao dịch thông thường, khi định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung mà có sự đồng ý của các đồng sở hữu thì vẫn được ghi nhận giá trị pháp lý, nhưng đối với di chúc, hiện tại quy định này chưa được ghi nhận. Bởi vì, di chúc vẫn chỉ được định nghĩa là ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Rõ ràng, đây là những hạn chế cần phải được hoàn thiện để cá nhân xác lập giao dịch nói chung và lập di chúc nói riêng.
Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 630 như sau: Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; thực hiện quyền lập di chúc trong phạm vi giới hạn luật định; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép”.
Thứ hai, quy định về sự đồng ý cho lập di chúc
Về nội dung này, BLDS năm 2015 đã có những quy định thay đổi để đảm bảo tính phù hợp hơn so với các BLDS trước đó. Thay vì chỉ cần sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho đối tượng từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám như các văn bản quy phạm pháp luật trước, khoản 2 Điều 625 BLDS năm 2015 quy định “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”. Điều này khẳng định một cách rõ ràng hơn, là cha, mẹ hoặc người giám hộ không được can thiệp vào nội dung di chúc của người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi. Quy định này thể hiện được sự phù hợp khi xét về bản chất của di chúc. Vì nội dung của di chúc phải là sự thể hiện ý chí của người thiết lập ra nó, cho nên quy định mới này là phù hợp. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, quy định về sự đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc người giám đối với loại di chúc của người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám là hợp lý nhưng vẫn chưa thuyết phục, vì:
Một là, di chúc là một loại giao dịch trọng hình thức. Tức pháp luật đề cao phương tiện ghi nhận sự thể hiện ra bên ngoài của ý chí hơn là những yếu tố mang tính ý niệm ở bên trong. Theo đó, việc lập di chúc của nhóm cá nhân này cần thiết phải ghi nhận một cách rõ ràng hơn sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc bằng hình thức cụ thể mà qua đó, có thể chứng minh được sự tồn tại của nó một cách đơn giản nhất. Vì di chúc có hiệu lực ở thời điểm người lập di chúc chết, nếu việc đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc không rõ ràng thì có thể dẫn tới “sự không tồn tại bản di chúc” trong kết luận chứng minh. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền của người lập di chúc và đồng thời ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của những người thừa kế được chỉ định trong di chúc. Họ sẽ phải vất vả rất nhiều trong việc chứng minh sự tồn tại sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người này.
Hai là, việc xác định phạm vi chủ thể đồng ý cho lập di chúc chưa bao quát được các trường hợp khác trong đời sống dân sự. Thực tế cho thấy, có trường hợp tại thời điểm người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ đơn thân hay cha hoặc mẹ biết việc lập di chúc của con và chỉ có một người đồng ý. Người còn lại có thể biết hoặc không biết về việc lập di chúc và chưa thể hiện sự đồng ý, và khi có tranh chấp, họ hoàn toàn có thể thể hiện ý chí mình về việc chưa đồng ý. Rõ ràng, với quy định hiện tại, người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi chỉ có thể lập di chúc khi người này rơi vào một trong hai trạng thái: (i) phải có cả cha, mẹ và cả cha, mẹ phải đồng ý cho lập di chúc; (ii) có người giám hộ. Sự ghi nhận này hoàn toàn chưa đảm bảo được yếu tố khách quan và toàn diện vì nó có thể xâm phạm với quyền, lợi ích của một nhóm người trong xã hội.
Do đó, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi khoản 2 Điều 625 như sau: “Người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi có quyền lập di chúc, nhưng chỉ được lập di chúc bằng văn bản khi có sự đồng ý bằng văn bảnvề việc lập di chúc của cha và mẹ hoặc người giám hộ. Trường hợp, người lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ tại thời điểm lập di chúc chỉ cần có sự đồng ý bằng văn bản của một người nhưng người còn lại phải ở trạng thái không thể biết việc lập di chúc đó không do lỗi của mình”.
Thứ ba, về người lập di chúc dưới mười lăm tuổi
Ngoài những độ tuổi về người lập di chúc được BLDS năm 2015 quy định rõ ràng, điều dễ nhận thấy là người dưới mười lăm tuổi không được lập di chúc. Tuy nhiên, cách thể hiện của quy định này chưa thật rõ vì BLDS năm 2015 chỉ đề cập tới hai chủ thể là người trên 18 tuổi và người từ đủ 15 đến chưa đủ mười tám. Trong khi đó, những vấn đề liên quan đến các chủ thể có độ tuổi dưới mười lăm lại được quy định rải rác ở các điều luật khác. Ví dụ: người dưới 6 tuổi, hoặc từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi không được lập di chúc nhưng không được quy định cụ thể là suy luận từ khoản 2, 3 Điều 21 BLDS năm 2015 hay trường hợp người bị hạn chế về mặt thể chất, họ không xuất hiện trong Điều 625 BLDS năm 2015 nhưng lại xuất tại khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015 với địa vị pháp lý giống chủ thể được quy định tại Điều 625 BLDS năm 2015. Vì vậy, cần sửa đổi nội dung của Điều 625 về người lập di chúc dưới 15 tuổi theo hướng xác định rõ giá trị pháp lý của hành vi này (như kinh nghiệm của Thái Lan, tại Điều 1703 BLDS Thái Lan quy định rõ: “Di chúc do một người chưa đủ mười lăm tuổi lập thì không có giá trị”).
Thứ tư, cách đặt điều kiện minh mẫn, sáng suốt đối với người lập di chúc là chưa thực sự logic và khoa học
BLDS năm 2015 dành cả Điều 625 để ghi nhận về cá nhân được lập di chúc. Nhưng quy định tại khoản 1 điều này lại kết nối với Điều 630 để ràng buộc điều kiện cũng như khoanh vùng loại bỏ tư cách chủ thể lập di chúc. Sự kết nối hay dẫn chiếu này không sai phạm về mặt lập pháp nhưng lại trở thành thiếu sót khi kết hợp với quy định khoản 2. Với sự xuất hiện của hai khoản này, người đọc sẽ hiểu rằng điều kiện về sự minh mẫn, sáng suốt chỉ cần đặt ra đối với người thành niên, còn người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi vì có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ nên sẽ không cần đến điều kiện này nữa. Nhưng khi nghiên cứu Điều 630 một cách độc lập, chúng tôi nhận thấy, quy định tại khoản 1 Điều này là bắt buộc áp dụng đối với tất cả mọi chủ thể lập di chúc. Và như vậy, di chúc do người thành niên hay người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi lập cũng phải thỏa mãn điều kiện về người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt. Cho nên, cách dẫn nhập tại khoản 1 Điều 625 tới Điều 630 là không cần thiết. Thậm chí, quy định liên quan tới người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi tại khoản 2 Điều 625 gần như được nhắc lại y nguyên quy định tại khoản 2 Điều 630. Điều này cho thấy sự không cần thiết trong cách thức viện dẫn về người có quyền lập di chúc và điều kiện về người lập di chúc khi xác định tính hợp pháp của di chúc.
Thứ năm, cách thức sử dụng từ ngữ thiếu tính thống nhất dẫn tới nhầm lẫn hoặc mâu thuẫn trong hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật
Khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”. Quy định này có một số vấn đề cần được làm rõ như sau:
Một là, nếu ghi nhận những thuật ngữ này có hàm ý chỉ những cá nhân có trạng thái thể chất khác nhau thì điểm khác nhau ở đây là gì? Hay đơn thuần, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là người bị Tòa án tuyên còn người có khiếm khuyết về mặt thể chất chưa bị Tòa án tuyên. Cách hiểu này chưa đưa tới câu trả lời thỏa đáng cho quy định tại khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015. Vì trong quy định về thừa kế theo di chúc, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi không được đề cập tới một cách cụ thể. Còn người khiếm khuyết về mặt thể chất lại được thực hiện quyền lập di chúc. Quy định như vậy dễ dẫn tới sự hiểu lầm, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi không được quyền lập di chúc.
Hai là, nếu ghi nhận những thuật ngữ này đang có hàm ý chỉ những cá nhân có trạng thái thể chất giống nhau lại càng không phù hợp khi không sử dụng chung một cụm từ để đảm bảo tính thống nhất. Cho nên, nếu đã bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì nên đồng nhất cách sử dụng ở từng điều luật, văn bản quy phạm pháp luật.
Về nội dung này, chúng tôi cho rằng, việc kế thừa quy định cho người hạn chế về mặt thể chất, người không biết chữ được quyền lập di chúc, đồng thời xác định người này khác người khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi ở chỗ chưa bị Tòa án tuyên thì nên ghi nhận thêm cả điều kiện để di chúc của người khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi hợp pháp. Có như vậy, quy định xét tính hợp pháp đối với người lập di chúc ở trường hợp này mới đầy đủ và toàn diện.
Hơn nữa, để đảm bảo quyền lập di chúc của mọi cá nhân, quy định về người hạn chế về mặt thể chất nên định hướng rõ điều kiện để di chúc họ lập sẽ phát sinh hiệu lực. Theo đó, quy định tại hoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015 cần sửa lại theo hướng: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất, của người không biết chữ hoặc có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi do người được người này chỉ định lập thành văn bản trước mặt ít nhất hai người làm chứng phải có công chứng hoặc chứng thực”.
Tóm lại, chúng tôi kiến nghị hai quy định độc lập sau:
(i) Quy định về người lập di chúc.
Điều …. Người lập di chúc
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên không bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.
2. Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Người dưới mười lăm tuổi không được quyền lập di chúc.
(ii) Quy định về tính hợp pháp đối với người lập di chúc.
– “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; thực hiện quyền lập di chúc trong phạm vi giới hạn luật định; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”.
– Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập bằng văn bản khi có sự đồng ý bằng văn bảnvề việc lập di chúc của cha và mẹ hoặc người giám hộ. Trường hợp người lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ tại thời điểm lập di chúc thì chỉ cần có sự đồng ý bằng văn bản của một người nhưng người còn lại phải rơi vào trạng thái không thể biết việc lập di chúc đó không do lỗi của mình.
– Di chúc của người bị hạn chế về thể chất, của người không biết chữ hoặc có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi do người được người này chỉ định lập thành văn bản trước mặt ít nhất hai người làm chứng phải có công chứng hoặc chứng thực”./.
>>>>>> Bài viết đáng quan tâm khác: Dịch vụ tư vấn thường xuyên được cung cấp bởi Vinalaw
Với slogan: “Là điểm tựa của niềm tin”