ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT ĐIỆN ẢNH > CÔNG TY LUẬT HỢP DANH VIỆT NAM

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT ĐIỆN ẢNH

         BỘ TƯ PHÁP

VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT        

  BỘ VĂN HÓA – THÔNG TIN

       CỤC ĐIỆN ẢNH

 

                                                                                                             

 

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT ĐIỆN ẢNH

 

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT ĐIỆN ẢNH

1. Điện ảnh là ngành nghệ thuật tổng hợp các yếu tố văn học, nghệ thuật, âm nhạc, kiến trúc, nhiếp ảnh… Tác phẩm điện ảnh là bộ phim được hình thành bởi sự sáng tạo nghệ thuật, thể hiện các hình ảnh liên tục và âm thanh, được ghi lại trên phim bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại và chiếu trên màn ảnh, phát trên sóng truyền hình mà không phụ thuộc vào không gian, thời gian để phổ biến rộng rãi đến công chúng. Do đó, tác phẩm điện ảnh mang tính đại chúng, có sức thu hút đông đảo khán giả và cùng lúc có thể phổ cập trên địa bàn rộng, trên phạm vi cả nước, nên có tác động mạnh mẽ trong đời sống xã hội và giao lưu quốc tế. Ngoài lợi ích về kinh tế, tác phẩm điện ảnh còn là một sản phẩm nghệ thuật gắn với định hướng tư tưởng, ảnh hưởng sâu sắc đến tình cảm, đạo đức lối sống của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con người mới xã hội hội chủ nghĩa.

Bước vào cơ chế thị trường trong những năm 80 của thế kỷ trước, điện ảnh cũng như một số ngành nghệ thuật khác rơi vào tình trạng khủng hoảng, các lĩnh vực sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim không còn được Nhà nước bao cấp, nên dẫn đến tình trạng sản xuất phim bị đình trệ, rạp chiếu phim đóng cửa hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng, nạn video đen hoành hành…Tuy nhiên, kể từ khi ban hành Nghị định số 48/1995/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 1995 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động điện ảnh cho đến nay, tổ chức và hoạt động của ngành điện ảnh đã có bước phát triển, mang theo một diện mạo mới. Các đơn vị điện ảnh bước đầu được củng cố, một số cơ sở điện ảnh tư nhân được thành lập; hoạt động sản xuất, xuất, nhập khẩu, phổ biến và lưu trữ phim dần dần ổn định; nhiều thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động điện ảnh, trong đó bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các tổ chức, cá nhân nước ngoài.

2. Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế – xã hội, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động điện ảnh ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong điều kiện đó, các quy định của pháp luật hiện hành đã dần bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không phù hợp với tình hình hiện nay, cụ thể là:

a/ Nhiều quy định không còn tính khả thi, chưa phù hợp với quan điểm, chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, như quy định giao cho một đơn vị độc quyền nhập khẩu phim để phát hành trong mạng lưới chiếu bóng cả nước đã làm hạn chế công tác thực hiện xã hội hóa hoạt động điện ảnh và trong thực tế cũng không có khả năng cung ứng được cho thị trường chiếu phim trên hệ thống rạp hoặc như quy định phải đạt 50% thời lượng phát sóng phim truyện Việt Nam trên truyền hình cũng không khả thi vì khả năng sản xuất phim truyện trong nước của những đơn vị sản xuất phim, của các đài truyền hình còn hạn chế, thực tế chỉ đáp ứng được từ 17 đến 20% …

b/ Trước sự phát triển của tình hình kinh tế – xã hội, hoạt động điện ảnh có nhiều thay đổi, xuất hiện nhiều vấn đề mới cần được điều chỉnh bằng pháp luật như: điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất phim tư nhân chưa được quy định cụ thể, doanh nghiệp nhập khẩu phim gắn với với việc phát triển hệ thống rạp chiếu phim hiện đại…; quyền, trách nhiệm của biên kịch, đạo diễn và các thành viên khác trong đoàn làm phim không rõ ràng, nảy sinh nhiều vướng mắc, có vụ phải kiện ra tòa án; vấn đề quản lý và sản xuất phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước cho phù hợp với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh; nâng cao chất lượng của các tác phẩm điện ảnh; giải quyết mối quan hệ giữa điện ảnh với truyền hình để bảo đảm việc sản xuất và phát sóng phim truyện Việt Nam trên truyền hình đạt hiệu quả.

c/ Trong thời gian qua, các văn bản pháp luật được ban hành như Bộ Luật Dân sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản… có nhiều quy định liên quan đến hoạt động điện ảnh, trong khi đó  tổ chức và hoạt động điện ảnh mới chỉ được điều chỉnh bằng các văn bản dưới luật, nên đã tạo ra sự thiếu thống nhất trong quản lý nhà nước, không tương thích trong việc điều chỉnh hoạt động điện ảnh. Vì thế, hoạt động điện ảnh đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng hình thức văn bản pháp lý cao hơn để thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật của những ngành  liên quan.

d/ Hiện nay, nước ta đã tham gia một số tổ chức khu vực và quốc tế, chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, trong đó có hoạt động điện ảnh. Do đó, cần có pháp luật điều chỉnh hoạt động điện ảnh phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động điện ảnh còn thiếu các quy định về hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để sản xuất phim, hoạt động điện ảnh có yếu tố nước ngoài; tỷ lệ chiếu phim Việt Nam với phim nước ngoài trong hệ thống chiếu bóng, phát sóng trên truyền hình cũng cần được điều chỉnh để có tính khả thi, đáp ứng trong tình hình mới…

Những vấn đề nêu trên gây ra vướng mắc và khó khăn nhất định cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động điện ảnh trên đất nước ta, chưa tạo sự khuyến khích đối với các thành phần kinh tế tham gia vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh, hạn chế khả năng phát triển của nền điện ảnh nước nhà.

Để sớm khắc phục, giải quyết những hạn chế và bất cập trên đây, việc xây dựng và ban hành Luật Điện ảnh là rất cần thiết để tạo hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ cho tổ chức và hoạt động điện ảnh nhằm thúc đẩy hoạt động điện ảnh phát triển phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò và bản sắc của điện ảnh Việt Nam.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT ĐIỆN ẢNH

Luật Điện ảnh đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Luật Điện ảnh được xây dựng trên cơ sở quán triệt những nguyên tắc và quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về tổ chức và hoạt động điện ảnh, thể hiện trong các văn kiện về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

2. Tiếp tục đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh, khuyến khích sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, tổ chức, cá nhân vào lĩnh vực hoạt động điện ảnh; tôn trọng quyền tự do sáng tạo và tự do hoạt động điện ảnh của các tổ chức, cá nhân; Nhà nước quản lý tác phẩm điện ảnh chủ yếu thông qua việc cấp giấy phép phổ biến phim.

3. Tạo điều kiện cho hoạt động điện ảnh Việt Nam phát triển phù hợp với xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế; đẩy mạnh sản xuất phim Việt Nam, nâng cao chất lượng nghệ thuật và kỹ thuật đạt trình độ khu vực và thế giới; cho phép nhập khẩu phim nước ngoài, hợp tác, liên doanh với nước ngoài để sản xuất phim theo quy định của pháp luật.

4. Luật Điện ảnh được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động điện ảnh, đồng thời bảo đảm đồng bộ, thống nhất và phù hợp với Bộ Luật Dân sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản… và các điều ước quốc tế về điện ảnh mà Việt Nam là thành viên.

III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT ĐIỆN ẢNH

Luật Điện ảnh gồm 8 chương, 55 điều với các nội dung cụ thể như sau:

Chương I: Những quy định chung, gồm 11 điều (từ Điều 1 đến Điều 11), quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; áp dụng Luật Điện ảnh; giải thích từ ngữ; chính sách của Nhà nước về phát triển điện ảnh; Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh; bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu tác phẩm; nội dung quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước về điện ảnh; khiếu nại, tố cáo trong hoạt động điện ảnh; những hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh.

Phạm vi điều chỉnh của Luật gồm các quy định về tổ chức và hoạt động điện ảnh; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh hoặc có liên quan đến hoạt động điện ảnh tại Việt Nam. Như vậy phạm vi điều chỉnh của Luật rất rộng, vì hoạt động điện ảnh mang tính xã hội hóa cao, không chỉ điều chỉnh tổ chức cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh mà còn điều chỉnh tổ chức, cá nhân có hành vi liên quan như trường hợp cơ quan có phòng họp, cá nhân có ngôi nhà cho mượn, cho thuê để quay phim (chứ không phải cơ sở cung cấp dịch vụ sản xuất phim) hoặc cá nhân vào vai diễn quần chúng trong chốc lát, thoáng qua…

Hoạt động điện ảnh quy định trong Luật gồm các lĩnh vực chủ yếu đó là hoạt động sản xuất phim, phát hành phim  phổ biến phim. Ba lĩnh vực này cũng được đề cập chi tiết trong ba chương, đồng thời cũng là ba chương quan trọng của Luật. Trong Luật, các từ ngữ này được hiểu như sau:

– Sản xuất phim là quá trình tạo ra tác phẩm điện ảnh từ kịch bản văn học đến khi hoàn thành bộ phim.

– Phát hành phim là quá trình lưu thông phim thông qua hình thức bán, cho thuê, xuất khẩu, nhập khẩu.

– Phổ biến phim là việc đưa phim đến công chúng thông qua hình thức chiếu phim tại rạp, bãi chiếu bóng, phát sóng trên truyền hình, đưa lên mạng internet và phương tiện nghe nhìn khác.

Về đối tượng áp dụng, Luật quy định áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài hoạt động điện ảnh hoặc có liên quan đến hoạt động điện ảnh tại Việt Nam. Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng điều ước quốc tế đó.

Chính sách phát triển điện ảnh của Nhà nước được Quốc hội quan tâm, nhằm khẳng định vai trò, mục đích của hoạt động điện ảnh, khẳng định sự đầu tư quan trọng của Nhà nước cho ngành điện ảnh.

Đó là việc phải có chính sách đầu tư xây dựng một nền điện ảnh Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hiện đại hóa công nghiệp điện ảnh, nâng cao chất lượng phim, phát triển quy mô sản xuất và phổ biến phim, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế- xã hội, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước.

Đồng thời để phát huy nguồn lực của xã hội, thực hiện chủ trương xã hội hóa của Đảng, Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi tổ chức cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh theo quy định của pháp luật, bảo đảm để các cơ sở điện ảnh thuộc mọi thành phần kinh tế được bình đẳng trong hoạt động điện ảnh, được hưởng các chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế và đất đai.

Điện ảnh là một ngành nghệ thuật, nhưng đồng thời cũng là một ngành ứng dụng khoa học kỹ thuật dựa trên nền tảng công nghiệp hiện đại. Việc đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như đào tạo nhân lực cho ngành điện ảnh  hết sức tốn kém, chỉ có Nhà nước mới có thể đảm nhiệm được. Vì thế, việc đầu tư phải có trọng tâm trọng điểm, thông qua chương trình mục tiêu nhằm tạo tiền đề, phát huy sự sáng tạo nghệ thuật, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ hiện đại, bồi dưỡng nhân lực về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý hoạt động điện ảnh; nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất và phổ biến phim.

Nhà nước cũng khẳng định sẽ tiếp tục tài trợ cho sản xuất phim truyện với các đề tài ưu tiên như thiếu nhi, truyền thống lịch sử, dân tộc thiểu số. Sản xuất phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình không thu hồi được vốn vì khó kinh doanh sẽ được Nhà nước tài trợ dưới hình thức đặt hàng 100% giá thành sản xuất. Việc tài trợ cho phổ biến phim ở nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa Nhà nước duy trì ở mức cao hơn hiện nay.

Cũng về vấn đề phổ biến phim, Luật quy định trong quy hoạch khu đô thị phải dành quỹ đất để xây dựng rạp chiếu phim. Đây cũng là một điểm mới trong Luật, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhân dân thưởng thức loại hình nghệ thuật thứ bảy này.

Về Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh, Luật quy định Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh được thành lập để thưởng cho phim có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao, hỗ trợ sản xuất phim thể nghiệm nghệ thuật, phim đầu tay và các hoạt động phát triển điện ảnh. Nguồn của Quỹ bao gồm nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh do Chính phủ quy định cụ thể việc thành lập và hoạt động.

Đây cũng là điểm mới của Luật, bởi vì một khi Quỹ hỗ trợ điện ảnh phát triển chắc chắn góp một phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự sáng tạo nghệ thuật của văn nghệ sĩ; đồng thời sự ra đời của Quỹ có thể huy động nhiều nguồn lực của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để phát triển sự nghiệp điện ảnh.

Thực hiện đồng bộ, đầy đủ các chính sách của Nhà nước về phát triển điện ảnh, chúng ta có cơ sở để tin rằng sẽ bảo vệ và phát triển nền điện ảnh dân tộc như mong muốn của xã hội.

Việc bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu tác phẩm điện ảnh được quy định theo Bộ Luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ.

Về những hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh, Luật chỉ quy định chung như các Luật Báo chí, Luật Xuất bản, còn lại Quốc hội giao cho Chính phủ hướng dẫn.

Chương II: Cơ sở điện ảnh, gồm 6 điều (từ Điều 12 đến Điều 17), quy định cơ sở điện ảnh; thành lập và quản lý doanh nghiệp điện ảnh; điều kiện thành lập doanh nghiệp điện ảnh; tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp điện ảnh; đăng ký thành lập doanh nghiệp điện ảnh; tạm ngừng kinh doanh, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể, phá sản doanh nghiệp điện ảnh;

Chương này quy định cụ thể các loại hình cơ sở điện ảnh, cơ sở điện ảnh bao gồm doanh nghiệp điện ảnh và đơn vị sự nghiệp điện ảnh hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất phim, dịch vụ sản xuất phim, in sang, nhân bản phim, bán cho thuê phim, xuất khẩu, nhập khẩu phim, chiếu phim và cơ sở điện ảnh khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, một cơ sở điện ảnh có thể thực hiện một hoặc nhiều lĩnh vực trong hoạt động điện ảnh.

Về đơn vị sự nghiệp điện ảnh, Luật quy định được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và theo quy định của Chính phủ. Vì thế, ở các chương tiếp theo, Luật quy định chủ yếu đối với doanh nghiệp điện ảnh.

Việc thành lập và quản lý doanh nghiệp điện ảnh tại Việt Nam, Luật quy định tổ chức, cá nhân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp sản xuất phim, doanh nghiệp phát hành phim và doanh nghiệp phổ biến phim; tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp phát hành phim và doanh nghiệp phổ biến phim.

Doanh nghiệp điện ảnh là loại hình doanh nghiệp thành lập có điều kiện. Điều kiện thành lập doanh nghiệp điện ảnh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Riêng đối với doanh nghiệp sản xuất phim, Luật quy định ngoài điều kiện này, còn phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Bộ Văn hóa- Thông tin cấp, trong đó có vốn pháp định theo quy định của Chính phủ và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim phải là công dân thường trú tại Việt Nam.

Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Văn hóa- Thông tin có trách nhiệp cấp giấy chứng nhận; trường hợp không cấp giấy chứng nhận phải có văn bản nêu rõ lý do.

Về điều kiện làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp điện ảnh, Luật quy định có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Doanh nghiệp và có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong hoạt động điện ảnh. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim, ngoài điều kiện nêu trên đây, phải là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam.

Về đăng ký thành lập doanh nghiệp điện ảnh, Luật quy định trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp điện ảnh, cơ quan đăng ký kinh doanh phải gửi bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh.

Chương III: Sản xuất phim, gồm 8 điều (từ Điều 18 đến Điều 25), quy định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp sản xuất phim; quyền và trách nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim; quyền và trách nhiệm của biên kịch, đạo diễn và các thành viên khác trong đoàn làm phim; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim; quyền và trách nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim; cấp giấy phép hợp tác, liên doanh sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài; sản xuất phim đặt hàng; sản xuất phim truyền hình.

Về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp sản xuất phim, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim, Luật quy định doanh nghiệp sản xuất phim, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim phải thực hiện kinh doanh theo đúng nội dung đăng ký, có quyền hợp tác, liên doanh với tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài để sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim. Đây là điểm mới, vì trước kia chỉ có những cơ sở điện ảnh của Nhà nước mới được hợp tác, liên doanh sản xuất phim hoặc cung cấp dịch vụ sản xuất phim với tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Việc hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để sản xuất phim và cung cấp dịch vụ sản xuất phim phải thực hiện đúng nội dung giấy phép của Bộ Văn hóa- Thông tin. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép bao gồm đơn đề nghị cấp giấy phép và kịch bản văn học bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Văn hóa – Thông tin có trách nhiệm cấp giấy phép; trường hợp không cấp giấy phép phải có văn bản nêu rõ lý do.

Về quyền và trách nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim, Luật quy định Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải bảo đảm tổ chức thực hiện đúng nội dung đăng ký, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung phim và mọi hoạt động của doanh nghiệp; thực hiện các quy định về quyền tác giả và quyền liên quan; thực hiện  quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

Về quyền và trách nhiệm của biên kịch, đạo diễn và các thành viên khác trong đoàn làm phim, Luật quy định phải thực hiện theo nội dung hợp đồng với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim được ký kết trên cơ sở thỏa thuận và không trái với quy định của pháp luật để có thể giải quyết tranh chấp giữa biên kịch và đạo diễn, giữa tác giả kịch bản văn học và doanh nghiệp sản xuất phim…

Về sản xuất phim đặt hàng, Luật quy định tổ chức, cá nhân đặt hàng sản xuất phim là chủ đầu tư dự án sản xuất phim. Vì thế, trong Luật chỉ điều chỉnh việc sản xuất phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước.

Việc sản xuất phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước, chủ đầu tư phải tuyển chọn kịch bản văn học trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng thẩm định kịch bản văn học do chủ đầu tư dự án sản xuất phim thành lập và chọn doanh nghiệp sản xuất phim theo quy định của Luật Đấu thầu. Luật cũng quy định nghĩa vụ của chủ đầu tư có trách nhiệm cung cấp tài chính, thực hiện các điều khoản theo đúng hợp đồng với doanh nghiệp sản xuất phim và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim phải thực hiện đúng hợp đồng với chủ đầu tư và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung phim. Với quy định này, Luật cho phép doanh nghiệp sản xuất phim thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng và có quyền tham gia sản xuất phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước.

Về sản xuất phim truyền hình, Luật quy định Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh- truyền hình cấp tỉnh có quyền quyết định đầu tư và có trách nhiệm tổ chức sản xuất phim để phát sóng trên đài truyền hình của mình, phù hợp với quy định của pháp luật.

Chương IV: Phát hành phim, gồm 6 điều (từ Điều 26 đến Điều 31), quy định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp phát hành phim; quyền và trách nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp phát hành phim; bán, cho thuê phim; in sang, nhân bản phim; xuất khẩu phim, nhập khẩu phim; hộ gia đình in sang, nhân bản, bán, cho thuê phim.

Về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp phát hành phim, Luật quy định phải thực hiện kinh doanh theo đúng nội dung đã đăng ký và được quyền trao đổi phim, hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài để phát hành phim.

Về bán, cho thuê phim, in sang, nhân bản phim, Luật quy định tổ chức, cá nhân được quyền bán, cho thuê, in sang, nhân bản phim theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật này, với điều kiện phim đã có giấy phép phổ biến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc đã có quyết định phát sóng của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh- truyền hình cấp tỉnh.

Đây là quy định rất mới, bởi vì theo quy định hiện hành, phim đã phát trên sóng truyền hình, kể cả truyền hình Trung ương, nhưng muốn phổ biến trong mạng lưới chiếu bóng hoặc xuất khẩu đều phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh cấp giấy phép phổ biến.

Trong Luật cũng quy định, nếu phim là băng phim, đĩa phim còn phải dán nhãn kiểm soát của Bộ Văn hóa – Thông tin. Căn cứ vào giấy phép phổ biến phim của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh, quyết định phát sóng của Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh, Bộ Văn hóa – Thông tin sẽ cấp nhãn kiểm soát băng phim, đĩa phim theo đề nghị của cơ sở sản xuất, phát hành, nhập khẩu phim.

Về hoạt động xuất khẩu phim, Luật quy định phim xuất khẩu phải có giấy phép phổ biến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc quyết định phát sóng của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam. Đây cũng là một quy định có nội dung mới, vì trước đây việc xuất khẩu phim, kể cả phim do Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất đều phải được Bộ Văn hóa – Thông tin cấp giấy phép phổ biến.

Trước đây việc nhập khẩu chỉ do một đơn vị của Bộ Văn hóa – Thông tin là Công ty Xuất nhập khẩu và phát hành phim Việt Nam đảm nhiệm. Trong cơ chế thị trường như phân tích ở trên, Công ty này đã không đảm bảo việc đáp ứng số lượng cũng như chất lượng nghệ thuật, kỹ thuật của phim nhập khẩu cho mạng lưới chiếu bóng cả nước. Vì thế, để có thể huy động tiềm năng của xã hội, Luật đã mở rộng quy định về đối tượng được nhập khẩu phim, đó là:

– Doanh nghiệp phát hành phim và doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh nhập khẩu phim với điều kiện phải có rạp chiếu phim để tham gia phổ biến phim.

– Doanh nghiệp chiếu phim.

– Doanh nghiệp sản xuất phim (với điều kiện số lượng phim nhập khẩu mỗi năm không vượt quá hai lần số lượng phim sản xuất)

– Đài Truyền hình Việt Nam, đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh được nhập khẩu phim để phát sóng trên truyền hình (với điều kiện số tập phim nhập khẩu mỗi năm không vượt quá hai lần số tập phim sản xuất).

– Các đơn vị sự nghiệp cũng được nhập khẩu phim lưu hành nội bộ để phục vụ yêu cầu công tác của mình.

– Cơ quan nghiên cứu khoa học được nhập khẩu phim để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học.

– Tất cả các loại phim nhập khẩu đều phải tuân thủ theo một nguyên tắc chung, đó là phải có bản quyền hợp pháp và không vi phạm quy định tại Điều 11 (Những hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh).

Về việc hộ gia đình in sang, nhân bản, bán, cho thuê phim, Luật quy định nếu sử dụng mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp, còn sử dụng dưới mười lao động thực hiện đăng ký và hoạt động theo quy định của Chính phủ. Đây cũng là điểm mới của Luật, thể hiện sự xã hội hóa một số hoạt động điện ảnh, quy định trước đây chỉ cho phép doanh nghiệp sản xuất phim, phát hành phim mới được thực hiện in sang, nhân bản phim.

Chương V: Phổ biến phim, gồm 13 điều (từ Điều 32 đến Điều 44), quy định quyền và nghĩa vụ của cơ sở chiếu phim; quyền và trách nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc cơ sở chiếu phim; chiếu phim lưu động; phát sóng phim trên hệ thống truyền hình; phổ biến phim trên internet, khai thác phim từ vệ tinh; giấy phép phổ biến phim; thẩm quyền cấp giấy phép phổ biến phim; hội đồng thẩm định phim; quảng cáo phim; tổ chức, tham gia liên hoan phim, hội chợ phim; tổ chức liên hoan phim truyền hình; văn phòng đại diện cơ sở điện ảnh nước ngoài tại Việt Nam; văn phòng đại diện cơ sở điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài.

Về quyền và nghĩa vụ của cơ sở chiếu phim, Luật quy định cơ sở chiếu phim phải thực hiện kinh doanh theo đúng nội dung đăng ký, có quyền hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để chiếu phim.

Về quyền và trách nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc cơ sở chiếu phim, Luật quy định chỉ được chiếu phim đã có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc có quyết định phát sóng của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh; phải bảo đảm tỷ lệ buổi chiếu phim Việt Nam so với phim nước ngoài, giờ chiếu phim Việt Nam, thời lượng và giờ chiếu phim cho trẻ em theo quy định của Chính phủ.

Về phát sóng phim trên truyền hình, Luật quy định phim phải có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc có quyết định phát sóng của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh- truyền hình cấp tỉnh; phải bảo đảm tỷ lệ thời lượng phát sóng phim Việt Nam so với phim nước ngoài, giờ phát sóng phim Việt Nam, thời lượng và giờ phát sóng cho trẻ em theo quy định của Chính phủ.

Việc Luật quy định phải bảo đảm tỷ lệ chiếu phim Việt Nam, giờ chiếu phim, phát sóng phim Việt Nam, giờ chiếu phim, phát sóng phim cho trẻ em là một điểm mới.

Về chiếu phim lưu động, Luật quy định Nhà nước có chính sách đầu tư thiết bị chiếu phim, phương tiện vận chuyển, cấp kinh phí hoạt động cho đội chiếu phim lưu động; ngân sách nhà nước bảo đảm 100% chi phí buổi chiếu phim ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, lực lượng vũ trang, bảo đảm từ 50% đến 80% chi phí buổi chiếu phim ở các vùng nông thôn cho đội chiếu phim lưu động.

Để có thể huy động mọi nguồn lực trong xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu xem phim của nhân dân ở những nơi khó khăn, Luật quy định cơ sở chiếu phim tư nhân lưu động phục vụ ở nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện cũng được thanh toán chi phí buổi chiếu phim như cơ sở chiếu phim nhà nước.

So với quy định về chiếu phim lưu động ở nông thôn, miền núi hiện nay, Điều này cũng mang nội dung mới hơn, đó là Nhà nước có chính sách đầu tư thiết bị chiếu phim, phương tiện vận chuyển.

Về giấy phép phổ biến phim, Luật quy định phim Việt Nam do cơ sở sản xuất phim sản xuất, phim nhập khẩu chỉ được phát hành, phổ biến khi đã có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh; phim do Đài Truyền hình Việt Nam, đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh sản xuất và nhập khẩu đã có quyết định phát sóng được phổ biến trong phạm vi cả nước.

Về thẩm quyền cấp giấy phép phổ biến phim, Luật quy định Bộ Văn hóa – Thông tin cấp giấy phép phổ biến phim sản xuất và nhập khẩu của cơ sở điện ảnh thuộc Trung ương và địa phương trong cả nước, trừ trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được Chính phủ giao quyền cấp giấy phép phổ biến phim; Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm quyết định việc phát sóng trên đài truyền hình của mình.

Với quy định này, việc cấp giấy phép phổ biến phim đã thông thoáng hơn. Điều này có nghĩa là một bộ phim được Đài Truyền hình Việt Nam, đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh sản xuất và nhập khẩu sau khi có quyết định phát sóng thì có thể phổ biến trong phạm vi cả nước, kể cả trong mạng lưới chiếu bóng mà không cần phải có giấy phép phổ biến phim của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh như hiện nay.

Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được Chính phủ giao quyền cấp giấy phép phổ biến phim, thì bộ phim do Hội đồng thẩm định phim cấp tỉnh thẩm định vẫn có giá trị để xuất khẩu hoặc lưu hành trong phạm vi cả nước.

Về tổ chức liên hoan phim, hội chợ phim, Luật quy định các mức độ tổ chức như sau:

–  Bộ Văn hóa – Thông tin chịu trách nhiệm tổ chức liên hoan phim quốc gia theo định kỳ, liên hoan phim quốc tế tại Việt Nam.

– Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hội điện ảnh được tổ chức liên hoan phim chuyên ngành, chuyên đề và phải được Bộ Văn hóa – Thông tin chấp thuận.

Cơ sở sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim, Đài Truyền hình Việt Nam, đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh được tham gia liên hoan phim, hội chợ phim.

Về tổ chức liên hoan phim truyền hình, Luật quy định như sau:

–  Đài Truyền Việt Nam được tổ chức liên hoan phim truyền hình quốc gia và quốc tế tại Việt Nam.

– Đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh được tổ chức liên hoan phim truyền hình.

– Phim tham gia liên hoan phim truyền hình phải có quyết định phát sóng của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh – truyền hình cấp tỉnh.

Chương VI: Lưu chiểu phim, lưu trữ phim, gồm 3 điều (từ Điều 45 đến Điều 47), quy định về lưu chiểu phim; lưu trữ phim; quyền và nghĩa vụ của cơ sở lưu trữ phim.

Về lưu chiểu phim, Luật quy định phim sản xuất bằng vật liệu nào thì nộp lưu chiểu bằng vật liệu đó tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh; phim nhựa nhập khẩu thì cơ sở nhập khẩu nộp lưu chiểu phim bằng băng phim, đĩa phim được in sang từ bộ phim trình duyệt.

Như vậy quy định này có điểm mới, coi tác phẩm điện ảnh là tài sản cần được bảo vệ và lưu giữ lâu dài cho xã hội, cho nên Luật quy định phim sản xuất bằng vật liệu nào thì nộp lưu chiểu bằng vật liệu đó (không tính đến việc phim được sản xuất từ nguồn kinh phí nào như quy định hiện hành, phim được Nhà nước tài trợ 30% trở lên mới nộp lưu chiểu).

Về lưu trữ phim, Luật quy định cơ sở sản xuất phim tài trợ, đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước phải nộp lưu trữ vật liệu gốc bao gồm gốc hình, gốc tiếng, kịch bản và tài liệu kèm theo phim; cơ sở lưu trữ phim thuộc Bộ Văn hóa – Thông tin có trách nhiệm lưu trữ phim của các cơ sở điện ảnh thuộc Bộ Văn hóa – Thông tin, phim của các bộ, ngành địa phương được cấp giấy phép phổ biến trong mạng lưới chiếu phim; cơ sở lưu trữ phim thuộc bộ, ngành lưu trữ phim lưu hành nội bộ; cơ sở lưu trữ phim của Đài Truyền hình Việt Nam, đài phát thanh- truyền hình cấp tỉnh lưu trữ phim của đài mình.

Về quyền và nghĩa vụ của cơ sở lưu trữ phim, Luật quy định cơ sở lưu trữ phim phải bảo đảm an toàn phim, vật liệu gốc của phim và bảo quản đúng tiêu chuẩn kỹ thuật.

Ngoài ra, để mở rộng giao lưu quốc tế, Luật cho phép cơ sở lưu trữ được quyền hợp tác trong hoạt động bảo quản, lưu trữ, phục hồi, khai thác phim.

– Cơ sở lưu trữ cũng được làm dịch vụ lưu trữ phim; được bán cho thuê, phổ biến phim lưu trữ dịch vụ theo sự thỏa thuận với chủ sở hữu phim.

– Cơ sở lưu trữ còn được in sang, nhân bản để bán, cho thuê, phổ biến phim lưu chiểu khi có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh.

Chương VII: Thanh tra và xử lý vi phạm, gồm 6 điều (từ Điều 48 đến Điều 53), quy định các nội dung về thanh tra điện ảnh; xử lý hành vi vi phạm trong sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim, lưu chiểu phim, lưu trữ phim và xử lý vi phạm pháp luật về điện ảnh.

Các điều trong Chương này cụ thể hóa các hành vi vi phạm trong hoạt động điện ảnh như sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim, lưu chiểu phim, lưu trữ phim.

Ngoài ra, để điều chỉnh hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh ban hành quyết định sai, gây thiệt hại cho cơ sở điện ảnh,  Điều 53 quy định tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động điện ảnh thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bối thường theo quy định của pháp luật.

Chương VIII: Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 54 và Điều 55), quy định về Hiệu lực thi hành và Hướng dẫn thi hành.

Luật Điện ảnh có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Để Luật Điện ảnh sớm đi vào cuộc sống, hoạt động điện ảnh liên quan tới toàn xã hội, cần triển khai một số công việc sau đây:

– Soạn thảo và ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành 14 điều theo quy định tại Điều 55 của Luật Điện ảnh.

1. Điều 5: Chính sách của Nhà nước về phát triển điện ảnh

2. Điều 6: Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh

3. Điều 11: Những hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh

4. Điều 12: Cơ sở điện ảnh

5. Điều 14: Điều kiện thành lập doanh nghiệp điện ảnh

6. Điều 24: Sản xuất phim đặt hàng

7. Điều 30: Xuất khẩu phim, nhập khẩu phim

8. Điều 31: Hộ gia đình in sang, nhân bản, bán, cho thuê phim

9. Điều 33: Quyền và trách nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc cơ sở chiếu phim

10. Điều 34: Chiếu phim lưu động

11. Điều 35: Phát sóng phim trên hệ thống truyền hình

12. Điều 38: Thẩm quyền cấp giấy phép phổ biến phim

13. Điều 41: Tổ chức, tham gia liên hoan phim, hội chợ phim

14. Điều 53: Xử lý vi phạm pháp luật về điện ảnh

– Ban hành một số mẫu đơn, giấy phép, quy chế:

A/ MẪU ĐƠN

1. Đơn đề nghị cấp giấy phép hoạt động của đơn vị sự nghiệp điện ảnh (Điều 12).

2. Đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất phim (Điều 14).

3. Đơn đề nghị cấp giấy phép hợp tác liên doanh sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài (Điều 23).

4. Đơn đề nghị mở cửa hàng, đại lý bán cho thuê phim (Điều 28, Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ quy định Sở Văn hóa- Thông tin cấp giấy phép).

5. Đơn đề nghị cấp nhãn kiểm soát băng phim, đĩa phim (Điều 28).

6. Đơn đề nghị nhập khẩu phim đối với cơ sở sản xuất phim, Đài Truyền hình Việt Nam, đài phát thanh- truyền hình cấp tỉnh (Điều 30).

7. Đơn đề nghị cấp giấy phép phổ biến phim (Điều 37).

8. Đơn đề nghị tổ chức liên hoan phim chuyên ngành, chuyên đề, tổ chức giới thiệu phim nước ngoài tại Việt Nam, tổ chức những ngày phim Việt Nam ở nước ngoài (Điều 41).

9. Đơn đề nghị đặt văn phòng đại diện của cơ sở điện ảnh nước ngoài tại Việt Nam (Điều 43).

10. Đơn đề nghị đặt văn phòng đại diện của cơ sở điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài (Điều 44).

B/ MẪU GIẤY PHÉP

1. Giấy phép hoạt động của đơn vị sự nghiệp điện ảnh (Điều 12).

2. Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất phim (Điều 14).

3. Giấy phép hợp tác liên doanh sản xuất phim, cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài (Điều 23).

4. Giấy phép mở cửa hàng, đại lý bán, cho thuê phim (Điều 28, Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ quy định Sở Văn hóa- Thông tin cấp giấy phép).

5. Giấy phép nhập khẩu phim đối với cơ sở sản xuất phim, Đài truyền hình Việt Nam, đài phát thanh- truyền hình cấp tỉnh (Điều 30).

6. Giấy phép phổ biến phim (Điều 37).

7. Quyết định phát sóng của Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh- truyền hình cấp tỉnh (Điều 37).

8. Văn bản chấp thuận việc tổ chức liên hoan phim chuyên ngành, chuyên đề, tổ chức giới thiệu phim nước ngoài tại Việt Nam, tổ chức những ngày phim Việt Nam ở nước ngoài (Điều 41).

9. Giấy phép đặt văn phòng đại diện của cơ sở điện ảnh nước ngoài tại Việt Nam (Điều 43).

10. Văn bản chấp thuận việc đặt văn phòng đại diện của cơ sở điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài (Điều 44).

C/ CÁC QUY CHẾ:

1. Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh (Điều 6).

2. Quy chế tổ chức và hoạt động của hội đồng thẩm định kịch bản phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước (Điều 24).

3. Quy chế đấu thầu sản xuất phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước (Điều 24).

4. Quy định tiêu chuẩn kỹ thuật rạp chiếu phim (Điều 32).

5. Quy chế tổ chức và hoạt động của hội đồng thẩm định phim (Điều 39).

6. Quy chế tổ chức liên hoan phim quốc gia, chuyên ngành, chuyên đề tại Việt Nam, tổ chức giới thiệu phim nước ngoài tại Việt Nam, tham gia liên hoan phim quốc tế, hội chợ phim quốc tế ở nước ngoài, tổ chức những ngày phim Việt Nam ở nước ngoài (Điều 41).

7. Quy chế tổ chức liên hoan phim truyền hình (Điều 42).

8. Quy định lệ phí thẩm định kịch bản, thẩm định phim.

9. Quy định sử dụng lệ phí thẩm định kịch bản, thẩm định phim.

– Tổ chức các buổi họp báo giới thiệu về Luật Điện ảnh, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Điện ảnh ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…

– Tiến hành tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh liên quan trong quản lý hoạt động điện ảnh.

– Tiến hành tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn đối với các cơ sở điện ảnh về những quy định trong Luật Điện ảnh, trong Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Điện ảnh.  

 

>>>>>>> Bài viết đáng quan tâm khác: Dịch vụ tư vấn thường xuyên được cung cấp bởi Vinalaw

——————–
𝑪𝒐̂𝒏𝒈 𝒕𝒚 𝑳𝒖𝒂̣̂𝒕 𝒉𝒐̛̣𝒑 𝒅𝒂𝒏𝒉 𝑽𝒊𝒆̣̂𝒕 𝑵𝒂𝒎 (𝑽𝒊𝒏𝒂𝒍𝒂𝒘 𝑭𝒊𝒓𝒎)

Với slogan: “Là điểm tựa của niềm tin”

??Phương châm làm việc: “Đừng bận tâm vì các vấn đề pháp lý của Quý khách hàng chính là công việc của chúng tôi”.
??Vinalaw luôn hoạt động với tôn chỉ đề cao pháp luật, uy tín, trung thực, bảo đảm lợi ích cao nhất của khách hàng trước pháp luật.
———————–
? Call: 028.629.119.20 (Liên hệ tư vấn miễn phí).
———————–
? Số 17 Trần Khánh Dư, Phường Tân Định, Quận 1, Hồ Chí Minh.
? 𝑭𝒂𝒄𝒆𝒃𝒐𝒐𝒌: fb.com/Vinalaw.vn
? 𝑾𝒆𝒃𝒔𝒊𝒕𝒆: www.vinalaw.vn
? 𝑬𝒎𝒂𝒊𝒍: info@vinalaw.vn