BỘ TƯ PHÁP
VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
|
BỘ XÂY DỰNG
CỤC QUẢN LÝ NHÀ VÀ THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN
|
ĐỀ CƯƠNG
GIỚI THIỆU LUẬT KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
Ngày 25 tháng 11 năm 2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật kinh doanh bất động sản số 66/2014/QH13. Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố ngày 08 tháng 12 năm 2014 và Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2015.
Phần I. Sự cần thiết phải ban hành Luật
Thị trường bất động sản là một trong những thị trường có vị trí và vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, quan hệ trực tiếp với các thị trường tài chính tiền tệ, thị trường xây dựng, thị trường vật liệu xây dựng, thị trường lao động… Phát triển ổn định, lành mạnh, hiệu quả thị trường bất động sản sẽ tạo ra một khối lượng lớn cơ sở vật chất cho xã hội, giúp các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát triển và nâng cao điều kiện sống cho các tầng lớp nhân dân, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Để có cơ sở pháp lý điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh bất động sản, cùng với pháp luật về đầu tư xây dựng, đất đai, nhà ở, Quốc hội đã thông qua Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 ngày 29/6/2006 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007). Sau khi Quốc hội thông qua Luật kinh doanh bất động sản, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản. Các Bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản.
Luật kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn đã quy định và điều chỉnh nhiều nội dung quan trọng liên quan tới hoạt động kinh doanh bất động sản như: phạm vi hoạt động kinh doanh bất động sản của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh; điều kiện đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ bất động sản; việc mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng có sẵn và trường hợp mua bán nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai; điều kiện năng lực tài chính, quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư các dự án kinh doanh bất động sản; kinh doanh các loại dịch vụ bất động sản (môi giới, định giá, sàn giao dịch, tư vấn, đấu giá, quảng cáo, quản lý bất động sản); các loại hợp đồng trong hoạt động kinh doanh bất động sản và trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bất động sản.
Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 cùng với các luật có liên quan như Luật nhà ở, Luật đất đai, Luật đầu tư, Luật xây dựng, Luật quy hoạch đô thị, Bộ luật dân sự, v.v.. đã tạo ra một hệ thống cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ giúp thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh, từng bước hội nhập với thông lệ quốc tế, thu hút nhiều nguồn lực trong và ngoài nước vào lĩnh vực bất động sản, thúc đẩy nhiều ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác cùng phát triển như ngành xây dựng, công nghiệp khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, trang trí nội ngoại thất công trình, đồ gia dụng … Thu ngân sách từ hoạt động kinh doanh bất động sản ngày càng tăng, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng GDP của quốc gia và phát triển kinh tế đất nước …
Tuy nhiên, sau hơn 7 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả đã đạt được như nêu trên, Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 cũng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn mới, cụ thể như sau:
1. Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 chưa quy định đủ các chế tài để tạo lập một thị trường bất động sản phát triển đồng bộ và lành mạnh; chưa có quy định để bảo đảm thị trường bất động sản phát triển có kế hoạch, để Nhà nước có thể kiểm soát, điều tiết được cung – cầu của thị trường, dẫn đến thị trường bất động sản thời gian qua phát triển thiếu ổn định, nhất là đối với thị trường bất động sản nhà ở, tình trạng đầu tư tự phát, theo “phong trào”, theo “đám đông” diễn ra phổ biến. Giá cả bất động sản tăng cao, cộng với tình trạng đầu cơ, kích giá, tạo giá ảo vượt quá khả năng chi trả của đại bộ phận tầng lớp dân cư trong xã hội. Khi thị trường bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế, cộng thêm việc các Ngân hàng thắt chặt cho vay tín dụng bất động sản thì thị trường lại rơi vào tình trạng trầm lắng kéo dài, giao dịch ít, thậm chí không có giao dịch, giá cả sụt giảm; tồn kho, dư thừa nhiều các loại bất động sản cao cấp, trong khi lại thiếu các loại nhà ở phù hợp để đáp ứng khả năng, nhu cầu của đại đa số người dân.
Mặt khác, mặc dù pháp luật về kinh doanh bất động sản đã có quy định về thu hồi dự án nếu không triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ, quy định chủ đầu tư phải có vốn từ 15%-20% để bảo đảm năng lực tài chính thực hiện dự án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những quy định này là chưa đủ, chưa khắc phục được tình trạng nhiều dự án chậm tiến độ, thi công cầm chừng, không triển khai, để đất hoang hóa, lãng phí, làm mất mỹ quan đô thị, gây ra nhiều tranh chấp khiếu kiện của khách hàng khi chủ đầu tư vi phạm hợp đồng, không thể bàn giao nhà như đã cam kết, gây bức xúc trong xã hội.
2. Phạm vi điều chỉnh của Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 chưa có quy định để phân biệt rõ đối tượng kinh doanh bất động sản phải đăng ký kinh doanh theo quy định và đối tượng không thuộc diện kinh doanh bất động sản, dẫn đến tình trạng nhiều tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã có đầu tư xây dựng, mua bất động sản nhưng chỉ để sử dụng (sản xuất, kinh doanh, văn phòng làm việc, …) và trong quá trình sử dụng có nhu cầu bán, cho thuê do dư thừa hoặc không còn nhu cầu sử dụng, nhất là đối với các hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu bán, cho thuê nhà ở, bất động sản của mình do nhu cầu cuộc sống mà cũng phải đăng ký kinh doanh, phải thành lập pháp nhân, phải có vốn pháp định theo quy định thì mới được bán, cho thuê nhà ở, bất động sản là không phù hợp thực tế, không có tính khả thi.
3. Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 đã cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được kinh doanh bất động sản để thu hút nguồn lực đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên, Luật lại hạn chế về phạm vi hoạt động, mới chỉ cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được kinh doanh dưới 2 hình thức: (1) Đầu tư tạo lập nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua; (2) Đầu tư cải tạo đất và đầu tư các công trình hạ tầng trên đất thuê để cho thuê đất đã có hạ tầng; mà chưa cho phép mua bán và thuê bất động sản để cho thuê lại. Những hạn chế này đã tạo ra sự không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khi tham gia thị trường bất động sản, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế trong bối cảnh nước ta ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước, từ đó hạn chế rất nhiều việc thu hút các nguồn lực đầu tư từ nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản. Về những quy định còn hạn chế này, thời gian vừa qua, nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn vào Việt Nam để đầu tư kinh doanh bất động sản nhưng không thể thực hiện được, hiện nay các tổ chức, cá nhân này đang rất quan tâm và đề nghị pháp luật Việt Nam cần mở rộng hơn nữa để họ có điều kiện được tham gia nhiều hơn trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, góp phần phát triển kinh tế của Việt Nam.
4. Về các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh, Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 cho phép mua bán nhà, công trình xây dựng có sẵn hoặc hình thành trong tương lai nhưng đối với việc cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình thì phải là nhà, công trình xây dựng đã có sẵn, không cho phép cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai. Những quy định này đã hạn chế khả năng huy động vốn, khai thác từng phần công trình của chủ đầu tư dự án, cũng như chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu thuê, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai để có thể đặt hàng, ký kết hợp đồng trước khi công trình được hoàn thành, để có điều kiện tham gia cùng với chủ đầu tư dự án trong việc hoàn thiện thiết kế, giám sát quá trình thi công xây dựng, hoàn thiện bất động sản để bất động sản sau khi hoàn thành sẽ đáp ứng đúng nhu cầu sử dụng của bên thuê, thuê mua bất động sản, từ đó sẽ không phải tốn kém, lãng phí để cải tạo, sửa chữa lại cho phù hợp với công năng, mục đích, yêu cầu sử dụng.
5. Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản khi bán, cho thuê, cho thuê mua bất động sản bắt buộc phải thông qua Sàn giao dịch bất động sản. Quy định này đã làm tăng thêm tổ chức kinh doanh dịch vụ trung gian, tăng thêm thủ tục, tăng thêm chi phí và góp phần đẩy giá, tạo giao dịch ảo, không đạt được mục đích là nơi giao dịch để đảm bảo tính công khai, minh bạch cho thị trường bất động sản, đồng thời quy định này đã làm hạn chế quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Hơn nữa việc quy định bắt buộc giao dịch bất động sản phải thông qua Sàn là không phù hợp, không hiệu quả đối với thị trường bất động sản “trầm lắng”, khi mà chủ đầu tư đã giảm giá, khuyến mại, chào bán rầm rộ, công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng mà vẫn không bán được hàng, các Sàn gần như không có giao dịch, nhiều Sàn phải đóng cửa … Do vậy, việc bắt buộc giao dịch bất động sản phải thông qua Sàn là chưa phù hợp với tình hình thực tế của nước ta. Mặt khác, theo kinh nghiệm quốc tế thì không có nước nào quy định bắt buộc các tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải bán, cho thuê, cho thuê mua bất động sản thông qua Sàn giao dịch bất động sản, mà chủ yếu thực hiện thông qua các nhà môi giới, luật sư, các trung tâm, văn phòng môi giới bất động sản. Trong khi để đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch của thị trường, của các giao dịch thì có nhiều biện pháp khác đơn giản và hiệu quả hơn (như quy định đối với một số loại bất động sản mà Nhà nước cần kiểm soát thì trước khi bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, chấp thuận đủ điều kiện thì mới được phép bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua).
6. Để đảm bảo cho các giao dịch bất động sản được công khai, minh bạch và bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia giao dịch thì hoạt động của các tổ chức, cá nhân môi giới bất động sản là rất quan trọng. Để thực hiện có hiệu quả công việc của nhà môi giới thì các tổ chức, cá nhân môi giới bất động sản cần phải có đủ năng lực hiểu biết về pháp luật, về kinh tế thị trường, về hoạt động kinh doanh bất động sản và có đạo đức nghề nghiệp, trong khi đó Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 quy định về điều kiện của người được cấp chứng chỉ môi giới bất động sản quá dễ dàng, không quy định phải qua kiểm tra, sát hạch về trình độ hiểu biết pháp luật, về kỹ năng hoạt động môi giới bất động sản, nên dẫn đến tình trạng hiện nay đội ngũ làm môi giới bất động sản yếu về chuyên môn, hiểu biết pháp luật hạn chế, chưa có tính chuyên nghiệp, yếu kém về đạo đức kinh doanh dẫn đến tình trạng làm ăn “chụp giật”, không chịu trách nhiệm, gây thiệt hại cho khách hàng khi tư vấn không đúng, tư vấn cho xong để kiếm tiền, thậm chí còn góp phần làm lũng đoạn thị trường, gây ra những “cơn sốt ảo” để kiếm lợi.
Để khắc phục các tồn tại, hạn chế, bất cập nêu trên thì việc sửa đổi Luật kinh doanh bất động sản năm 2006, ban hành Luật kinh doanh bất động sản mới là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh.
Phần II. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật
Luật Kinh doanh bất động sản 2014 được xây dựng trên cơ sở các quan điểm chủ yếu sau đây:
1. Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, các quy định của Hiến pháp năm 2013, quy định pháp luật về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, trong đó phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước để kiểm soát thị trường, bảo đảm cho thị trường bất động sản được phát triển theo đúng quy hoạch, kế hoạch, định hướng, bền vững và kết nối thông suốt với các thị trường khác trong nền kinh tế, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
2. Tạo môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng để huy động hiệu quả các nguồn lực của xã hội tham gia vào thị trường bất động sản; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và người dân tham gia hoạt động kinh doanh bất động sản; tăng cường hội nhập quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản, trên cơ sở bảo đảm chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
3. Hoàn thiện cơ cấu các chủ thể tham gia thị trường bất động sản, tăng cường năng lực và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của các nhà môi giới, các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ bất động sản để thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường bất động sản.
Phần III. Bố cục và những nội dung mới của Luật
1. Bố cục
Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 có 6 chương, 82 điều với những nội dung chính như sau:
– Chương 1: Những quy định chung.
– Chương 2: Kinh doanh bất động sản có sẵn.
– Chương 3: Kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai.
– Chương 4: Kinh doanh dịch vụ bất động sản.
– Chương 5: Quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh bất động sản.
– Chương 6: Điều khoản thi hành.
2. Những nội dung mới của Luật
Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 có một số nội dung mới so với Luật kinh doanh bất động sản năm 2006, cụ thể như sau:
2.1. Việc đầu tư xây dựng các dự án bất động sản để kinh doanh
Ngoài việc phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng còn phải theo kế hoạch thực hiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm ban hành, công khai và tổ chức triển khai kế hoạch thực hiện các dự án bất động sản trên địa bàn bảo đảm phù hợp với nhu cầu thị trường, điều kiện thực tế của địa phương. Cấm việc đầu tư các dự án bất động sản không phù hợp với quy hoạch, kế hoạch.
Những nội dung mới này được quy định tại Điều 12 về Yêu cầu đối với dự án đầu tư bất động sản để kinh doanh; Điều 78 về Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Điều 8 về Các hành vi bị cấm, cụ thể như sau:
“Điều 12. Yêu cầu đối với dự án đầu tư bất động sản để kinh doanh
1. Dự án đầu tư bất động sản để kinh doanh phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng nông thôn và phải theo kế hoạch thực hiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
2. Trình tự, thủ tục đầu tư dự án bất động sản để kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, đô thị, nhà ở và quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Dự án đầu tư bất động sản phải được thi công đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Điều 78. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
1. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với kinh doanh bất động sản trên địa bàn.
2. Bố trí quỹ đất để phát triển các dự án bất động sản trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.
3. Ban hành, công khai và tổ chức triển khai kế hoạch thực hiện các dự án bất động sản.
4. Quản lý hành nghề môi giới bất động sản, hoạt động của sàn giao dịch bất động sản và các dịch vụ bất động sản khác trên địa bàn.
5. Xây dựng hệ thống thông tin về thị trường bất động sản, xây dựng và công bố các chỉ số đánh giá thị trường bất động sản trên phạm vi địa bàn.
6. Phổ biến, giáo dục pháp luật về kinh doanh bất động sản trên địa bàn.
7. Hợp tác quốc tế về kinh doanh bất động sản.
8. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh bất động sản trên địa bàn theo thẩm quyền; tổ chức kiểm tra, rà soát các dự án kinh doanh bất động sản trên địa bàn để thực hiện việc thu hồi, đình chỉ, tạm dừng hoặc điều chỉnh, chuyển đổi, chuyển nhượng các dự án kinh doanh bất động sản.
9. Báo cáo Bộ Xây dựng về tình hình thị trường bất động sản trên địa bàn.
Điều 8. Các hành vi bị cấm
1. Kinh doanh bất động sản không đủ điều kiện theo quy định của Luật này.
2. Quyết định việc đầu tư dự án bất động sản không phù hợp với quy hoạch, kế hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
3. Không công khai hoặc công khai không đầy đủ, trung thực thông tin về bất động sản.
4. Gian lận, lừa dối trong kinh doanh bất động sản.
5. Huy động, chiếm dụng vốn trái phép; sử dụng vốn huy động của tổ chức, cá nhân và tiền ứng trước của bên mua, bên thuê, bên thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai không đúng mục đích theo cam kết.
6. Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
7. Cấp và sử dụng chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản không đúng quy định của Luật này.
8. Thu phí, lệ phí và các khoản tiền liên quan đến kinh doanh bất động sản trái quy định của pháp luật”.
2.2. Về điều kiện của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản:
Các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định không thấp hơn 20 tỷ đồng (thay vì chỉ cần 6 tỷ đồng như quy định của Luật kinh doanh bất động sản năm 2006).
Nội dung mới này được quy định tại Điều 10, cụ thể là:
“Điều 10. Điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) và có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên thì không phải thành lập doanh nghiệp nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.
Luật giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
2.3. Mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được kinh doanh bất động sản dưới 6 hình thức, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được kinh doanh bất động sản dưới 5 hình thức (thay vì chỉ được kinh doanh dưới 2 hình thức như quy định tại Luật kinh doanh bất động sản năm 2006).
Những nội dung mới này được quy định tại Điều 11, cụ thể là:
“Điều 11. Phạm vi kinh doanh bất động sản của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1. Tổ chức, cá nhân trong nước được kinh doanh bất động sản dưới các hình thức sau đây:
a) Mua nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua;
b) Thuê nhà, công trình xây dựng để cho thuê lại;
c) Đối với đất được Nhà nước giao thì được đầu tư xây dựng nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua; chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền theo quy định của pháp luật về đất đai; đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng kỹ thuật đó;
d) Đối với đất được Nhà nước cho thuê thì được đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua;
đ) Đối với đất được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thì được đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua;
e) Đối với đất nhận chuyển nhượng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thì được đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua;
g) Đối với đất thuê của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thì được đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng để cho thuê theo đúng mục đích sử dụng đất;
h) Nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản của chủ đầu tư để xây dựng nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua;
i) Nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật để chuyển nhượng, cho thuê đất đã có hạ tầng kỹ thuật đó.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được kinh doanh bất động sản dưới các hình thức sau đây:
a) Các hình thức quy định tại các điểm b, d, g và h khoản 1 Điều này;
b) Đối với đất được Nhà nước giao thì được đầu tư xây dựng nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua;
c) Đối với đất thuê, đất nhận chuyển nhượng trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế thì được đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng để kinh doanh theo đúng mục đích sử dụng đất.
3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được kinh doanh bất động sản dưới các hình thức sau đây:
a) Các hình thức quy định tại các điểm b, d, h khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều này;
b) Đối với đất thuê trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế thì được đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng để kinh doanh theo đúng mục đích sử dụng đất”.
2.4. Quy định cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua, thuê, thuê mua nhà công trình xây dựng của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Nội dung mới này được quy định tại Điều 14, cụ thể là:
“Điều 14. Đối tượng được mua, nhận chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất động sản của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản
1. Tổ chức, cá nhân trong nước được mua, nhận chuyển nhượng, thuê, thuê mua các loại bất động sản.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được thuê các loại bất động sản để sử dụng; được mua, thuê, thuê mua nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng để sử dụng làm văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo đúng công năng sử dụng của nhà, công trình xây dựng đó.
3. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh bất động sản được mua, nhận chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất động sản để kinh doanh theo quy định tại Điều 11 của Luật này”.
2.5. Mở rộng việc cho phép các chủ đầu tư dự án bất động sản được bán, cho thuê, cho thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai (thay vì chỉ được phép bán bất động sản hình thành trong tương lai như quy định tại Luật kinh doanh bất động sản năm 2006).
Nội dung mới này được quy định tại Điều 54, cụ thể là:
“Điều 54. Quyền kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai
1. Chủ đầu tư dự án bất động sản có quyền bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai.
2. Việc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai được thực hiện theo quy định của Chương này, các quy định tương ứng trong Chương II và các quy định khác có liên quan của Luật này”.
2.6. Để bảo vệ quyền lợi của khách hàng khi mua, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai, nhất là đối với bất động sản là nhà ở, Luật quy định:
– Chủ đầu tư dự án chỉ được thu tiền của khách hàng lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng, những lần tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng bất động sản nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà, công trình xây dựng cho khách hàng (trường hợp bên bán, bên cho thuê mua là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng). Khi bên mua, bên thuê mua chưa được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì không được thu quá 95% giá trị hợp đồng.
Nội dung mới này được quy định cụ thể tại Điều 57, cụ thể là:
“Điều 57. Thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai
1. Việc thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai được thực hiện nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng, những lần tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng bất động sản nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà, công trình xây dựng cho khách hàng; trường hợp bên bán, bên cho thuê mua là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng.
Trường hợp bên mua, bên thuê mua chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì bên bán, bên cho thuê mua không được thu quá 95% giá trị hợp đồng; giá trị còn lại của hợp đồng được thanh toán khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên mua, bên thuê mua.
2. Chủ đầu tư phải sử dụng tiền ứng trước của khách hàng theo đúng mục đích đã cam kết”.
– Riêng đối với nhà ở thì trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, chủ đầu tư còn phải có văn bản thông báo cho cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh về việc nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua; được ngân hàng thương mại bảo lãnh nghĩa vụ tài chính với khách hàng. Chủ đầu tư có trách nhiệm gửi bản sao hợp đồng bảo lãnh cho bên mua, bên thuê mua khi ký kết hợp đồng mua, thuê mua.
Nội dung mới này được quy định cụ thể tại Điều 55 và Điều 56, cụ thể là:
“Điều 55. Điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh
1. Có giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có Giấy phép xây dựng, giấy tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ dự án; trường hợp là nhà chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích để ở hình thành trong tương lai thì phải có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng của tòa nhà đó.
2. Trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, chủ đầu tư phải có văn bản thông báo cho cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh về việc nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho chủ đầu tư về nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua; trường hợp không đủ điều kiện phải nêu rõ lý do.
Điều 56. Bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai
1. Chủ đầu tư dự án bất động sản trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai phải được ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với khách hàng khi chủ đầu tư không bàn giao nhà ở theo đúng tiến độ đã cam kết với khách hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố danh sách ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh trong kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai.
2. Phạm vi, điều kiện, nội dung và phí bảo lãnh do các bên thỏa thuận nhưng phải bảo đảm thực hiện trách nhiệm của bên bảo lãnh quy định tại khoản 3 Điều này và phải được lập thành hợp đồng. Chủ đầu tư có trách nhiệm gửi bản sao hợp đồng bảo lãnh cho bên mua, bên thuê mua khi ký kết hợp đồng mua, thuê mua.
Hợp đồng bảo lãnh có thời hạn cho đến khi nhà ở được bàn giao cho bên mua, bên thuê mua.
3. Trường hợp chủ đầu tư không thực hiện bàn giao nhà ở theo tiến độ đã cam kết và bên mua, bên thuê mua có yêu cầu thì bên bảo lãnh có trách nhiệm hoàn lại số tiền ứng trước và các khoản tiền khác cho khách hàng theo hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở và hợp đồng bảo lãnh đã ký kết.
4. Việc bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai thực hiện theo quy định tại Điều này và quy định của pháp luật về bảo lãnh”.
2.7. Chủ đầu tư dự án bất động sản được chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án cho chủ đầu tư khác để tiếp tục đầu tư kinh doanh, để khắc phục tình trạng dự án chậm tiến độ, chủ đầu tư không còn khả năng tiếp tục triển khai dự án, gây lãng phí đất đai, ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị (thay vì chỉ được chuyển nhượng toàn bộ dự án như quy định của Luật kinh doanh bất động sản năm 2006).
Nội dung mới này được quy định tại Điều 48, cụ thể là:
“Điều 48. Nguyên tắc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản
1. Chủ đầu tư dự án bất động sản được chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án cho chủ đầu tư khác để tiếp tục đầu tư kinh doanh.
2. Việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản phải bảo đảm yêu cầu sau đây:
a) Không làm thay đổi mục tiêu của dự án;
b) Không làm thay đổi nội dung của dự án;
c) Bảo đảm quyền lợi của khách hàng và các bên có liên quan.
3. Việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc đầu tư đồng ý bằng văn bản. Chủ đầu tư nhận chuyển nhượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc được đăng ký biến động vào giấy chứng nhận đã cấp cho chủ đầu tư chuyển nhượng theo quy định của pháp luật về đất đai.
4. Chủ đầu tư nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản không phải làm lại hồ sơ dự án, quy hoạch xây dựng và Giấy phép xây dựng của dự án nếu không có thay đổi về nội dung chấp thuận chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của dự án”.
2.8. Cho phép người mua, thuê mua được chuyển nhượng hợp đồng mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, cụ thể như sau:
– Bên thuê mua có quyền chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng có sẵn khi chưa nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền (không áp dụng đối với hợp đồng thuê mua nhà ở xã hội).
Nội dung mới này được quy định tại Điều 36, cụ thể là:
“Điều 36. Chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng
1. Bên thuê mua có quyền chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng khi hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên thuê mua chưa được nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng phải được lập thành văn bản, có xác nhận của bên cho thuê mua vào văn bản chuyển nhượng.
2. Bên nhận chuyển nhượng hợp đồng thuê mua được tiếp tục thực hiện các quyền, nghĩa vụ của bên thuê mua nhà, công trình xây dựng với bên cho thuê mua. Bên cho thuê mua có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên trong việc chuyển nhượng hợp đồng và không được thu bất kỳ khoản chi phí nào liên quan đến việc chuyển nhượng hợp đồng.
3. Bên nhận chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng cuối cùng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
4. Việc chuyển nhượng hợp đồng quy định tại Điều này không áp dụng đối với hợp đồng thuê mua nhà ở xã hội.
Luật giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
– Bên mua, bên thuê mua có quyền chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai khi chưa nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền (không áp dụng đối với hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở xã hội).
Nội dung mới này được quy định tại Điều 59, cụ thể là:
“Điều 59. Chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai
1. Bên mua, bên thuê mua có quyền chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai khi hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên mua, bên thuê mua chưa được nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai phải được lập thành văn bản, có xác nhận của chủ đầu tư vào văn bản chuyển nhượng.
2. Bên nhận chuyển nhượng hợp đồng được tiếp tục thực hiện các quyền, nghĩa vụ của bên mua, bên thuê mua nhà ở với chủ đầu tư. Chủ đầu tư có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên trong việc chuyển nhượng hợp đồng và không được thu bất kỳ khoản chi phí nào liên quan đến việc chuyển nhượng hợp đồng.
3. Bên nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở cuối cùng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
4. Việc chuyển nhượng hợp đồng quy định tại Điều này không áp dụng đối với hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở xã hội.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này”.
2.9. Bỏ quy định bắt buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải bán, cho thuê, cho thuê mua bất động sản qua sàn giao dịch bất động sản nhằm bảo đảm quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như để khắc phục các tồn tại, bất cập của quy định bắt buộc các giao dịch này phải thông qua sàn như thời gian vừa qua của Luật kinh doanh bất động sản 2006.
2.10. Về kinh doanh dịch vụ bất động sản:
– Quy định chặt chẽ hơn về điều kiện của cá nhân được cấp Chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản, cụ thể là cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản phải có trình độ tốt nghiệp từ trung học phổ thông trở lên; đã qua sát hạch về kiến thức môi giới bất động sản; chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản có thời hạn sử dụng là 05 năm.
Nội dung mới này được quy định tại Điều 68, cụ thể là:
“Điều 68. Chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản
1. Cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên;
c) Đã qua sát hạch về kiến thức môi giới bất động sản.
2. Chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản có thời hạn sử dụng là 05 năm.
3. Bộ trưởng Bộ Xây dựng quy định cụ thể việc cấp chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản”.
– Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản.
Nội dung mới này quy định tại Điều 62, cụ thể là:
“Điều 62. Điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải thành lập doanh nghiệp và phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Cá nhân có quyền kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập nhưng phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản và đăng ký nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản không được đồng thời vừa là nhà môi giới vừa là một bên thực hiện hợp đồng trong một giao dịch kinh doanh bất động sản”.
Phần IV. Tổ chức thực hiện
Để bảo đảm Luật kinh doanh bất động sản 2014 được thực thi ngay khi có hiệu lực vào ngày 01/7/2015, trong thời gian tới sẽ tập trung triển khai các công việc sau:
1. Bộ Xây dựng sẽ phối hợp với các Bộ ngành liên quan xây dựng Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 để trình Chính phủ ban hành. Nội dung Nghị định quy định về: điều kiện của tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bất động sản; các loại hợp đồng mẫu trong kinh doanh bất động sản; chuyển nhượng hợp đồng thuê mua nhà, công trình xây dựng; thủ tục chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản; chuyển nhượng hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai;…
2. Bộ Xây dựng sẽ ban hành Thông tư hướng dẫn một số điều của Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 và những điều khoản trong Luật đã giao Bộ Xây dựng quy định như: việc cấp chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản; hướng dẫn việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức hành nghề môi giới bất động sản, điều hành sàn giao dịch bất động sản; việc thành lập và tổ chức hoạt động của sàn giao dịch bất động sản;…
3. Đăng nội dung của Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành lên các Báo, Tạp chí chuyên ngành để tuyên truyền sâu rộng tới mọi đối tượng và các tầng lớp nhân dân.
4. Bộ Xây dựng sẽ tiến hành tổ chức hội nghị phổ biến, tập huấn về Luật kinh doanh bất động sản 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành tại 3 miền trong năm 2015. Đối tượng là các cán bộ Sở Xây dựng địa phương, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, các chủ đầu tư dự án bất động sản và các nhà môi giới…
5. Phối hợp với các Hiệp hội nghề nghiệp, Hiệp hội bất động sản Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương tuyên truyền phổ biến Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Phối hợp với các cơ sở đào tạo để phổ biến kiến thức về pháp Luật kinh doanh bất động sản cho các nhà môi giới, các cá nhân làm quản lý điều hành sàn giao dịch bất động sản…
6. Các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Luật đến các đối tượng liên quan; giáo dục, vận động các tầng lớp nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành Luật.
>>>>>> Bài viết đáng quan tâm khác: Dịch vụ tư vấn thường xuyên được cung cấp bởi Vinalaw
Với slogan: “Là điểm tựa của niềm tin”