BỘ TƯ PHÁP
VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ______________________________
|
BỘ TÀI CHÍNH
VỤ PHÁP CHẾ ____________
|
TÀI LIỆU GIỚI THIỆU
LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 06/4/2016 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2016.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 được xây dựng để thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 (sau đây gọi là Luật thuế XNK). Sau gần 10 năm thực hiện, Luật thuế XNK đã tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế -xã hội của đất nước và đạt được các mục tiêu đề ra khi ban hành Luật.
Thứ nhất, Luật thuế XNK đã tạo khuôn khổ pháp lý góp phần quan trọng trong thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, XI, phù hợp với tiến trình cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2005 đến 2015.
Thứ hai, Luật thuế XNK góp phần tích cực thúc đẩy phát triển sản xuất và xuất khẩu, hỗ trợ dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời, bảo hộ hợp lý, có điều kiện, có chọn lọc đối với một số nhóm mặt hàng, ngành nghề phù hợp với tiến trình hội nhập và định hướng phát triển của Nhà nước giai đoạn 2005 đến 2015.
Thứ ba, tỷ trọng số thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong tổng thu NSNN giảm nhưng số thu vẫn tăng hợp lý hàng năm, góp phần điều chỉnh cơ cấu thu NSNN theo hướng bền vững và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong chống gian lận thương mại, chống thất thu thuế.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, Luật thuế XNK hiện hành đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế chủ yếu nhất định:
Thứ nhất, Việt Nam đã gia nhập WTO được 8 năm và ký kết 10 Hiệp định FTA. Từ năm 2018 trở đi, mức thuế suất thuế nhập khẩu về cơ bản sẽ được xóa bỏ theo các cam kết thuế quan. Theo đó, để góp phần bảo vệ sản xuất trong nước, cần thiết phải bổ sung, nâng cấp cơ sở pháp lý một số nội dung quan trọng về các biện pháp phòng vệ thương mại về thuế (thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ…) quy định ở ba Pháp lệnh hiện hành thành nội dung của Luật nhằm phát huy công cụ hữu hiệu này trong bảo vệ sản xuất trong nước, trong trường hợp các ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hoặc bị đe dọa thiệt hại do các hành vi bán phá giá, trợ cấp, phân biệt đối xử của các đối tác thương mại, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, Luật thuế XNK ban hành từ năm 2005 nên một số nội dung quy định tại Luật không còn phù hợp với quy định của hệ thống pháp luật nói chung và một số luật liên quan như Luật Quản lý thuế, Luật Hải quan, Luật Đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường…và thực tiễn xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa những năm gần đây. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; đồng thời, khắc phục các vướng mắc trong quá trình triển khai, thực hiện Luật thuế XNK thời gian qua, nhất là đối với các quy định về: đối tượng không chịu thuế, khung thuế suất, mức thuế suất, thời hạn nộp thuế và địa bàn, lĩnh vực cần được khuyến khích phát triển trên cơ sở thực hiện chính sách ưu đãi như miễn thuế, hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Thứ ba, một số quy định trong Luật hiện hành chưa phù hợp với những nội dung cam kết trong hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia. Trong đó, có những quy định theo các cam kết quốc tế cần thực hiện nhưng thực tế hiện nay đang được quy định tại văn bản dưới luật phải luật hóa để bảo đảm tính minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi trong triển khai thực hiện như quy định về miễn thuế đối với hàng hóa có trị giá tối thiểu hoặc có số tiền thuế phải nộp tối thiểu; hàng mẫu không nhằm mục đích thương mại; miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu theo Điều ước quốc tế…
Thứ tư, một số quy định trong Luật thuế XNK hiện không còn phù hợp, cần được sửa đổi để tạo hành lang pháp lý để thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế – xã hội, yêu cầu cải cách hành chính trong giai đoạn mới và định hướng cải cách về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 như nguyên tắc ban hành biểu thuế, thuế suất quy định trong Luật chưa bảo đảm khuyến khích phát triển sản xuất và xuất khẩu; số lượng mức thuế suất còn nhiều, phức tạp; quy định về đối tượng miễn thuế, hoàn thuế còn chưa hợp lý làm tăng thủ tục hành chính và chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế[1].
Để góp phần thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, chương trình cải cách, hiện đại hóa hệ thống thuế và hải quan, đồng thời phát huy những mặt tích cực và khắc phục những hạn chế nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế XNK hiện hành là cần thiết.
II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU XÂY DỰNG LUẬT
1. Quan điểm: Đổi mới về phương thức quản lý và chính sách thuế XNK phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế theo hướng ổn định, công khai, minh bạch; đồng thời, phát huy các công cụ phòng vệ về thuế, nâng cao vai trò của công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại; góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; cải cách thủ tục hành chính, thu hút đầu tư và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
2. Mục tiêu:
a) Góp phần khuyến khích phát triển và bảo hộ hợp lý sản xuất kinh doanh trong nước phù hợp định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước và các cam kết quốc tế đã ký kết.
b) Góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất với văn bản pháp luật liên quan trong đó có Hiến pháp năm 2013, Luật Đầu tư, Luật Quản lý thuế, Luật Hải quan; Luật Tài nguyên môi trường, Luật khoa học và công nghệ, Luật Công nghệ cao…; đồng thời, khắc phục các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Luật thuế XNK hiện hành.
c) Đảm bảo thực thi các cam kết quốc tế và điều ước quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Góp phần thực hiện chủ trương chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã đề ra, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên và tạo tiền đề pháp lý để hội nhập sâu, rộng hơn trong giai đoạn tới.
d) Đổi mới các nội dung và các điều Luật nhằm cải cách, hiện đại hóa thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho người nộp thuế; cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, thuận tiện, thống nhất; đảm bảo phù hợp với cam kết quốc tế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Tạo cơ sở pháp luật thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020.
III. BỐ CỤC CỦA LUẬT
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sau đây gọi tắt là Luật số 107/2016/QH13) sửa đổi gồm 22 Điều, được bố cục thành 5 Chương, cụ thể:
– Chương I: Những quy định chung, có 4 Điều (từ Điều 1 đến Điều 4);
– Chương II: Căn cứ tính thuế, thời điểm tính thuế và biểu thuế, có 7 Điều (từ Điều 5 đến Điều 11);
– Chương III: Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ, có 4 Điều (từ Điều 12 đến Điều 15);
– Chương IV: Miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, có 4 Điều (từ Điều 16 đến Điều 19);
– Chương V: Điều khoản thi hành, có 3 Điều (từ Điều 20 đến Điều 22).
IV. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Nhóm quy định về khuyến khích phát triển và bảo hộ hợp lý sản xuất kinh doanh trong nước phù hợp định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước và các cam kết quốc tế đã ký kết
1.1. Bổ sung một số nội dung quy định về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp, thuế tự vệ để góp phần bảo vệ sản xuất trong nước trong điều kiện hội nhập quốc tế trên cơ sở kế thừa, nâng cấp một số quy định của các Pháp lệnh liên quan (Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp và Pháp lệnh về tự vệ).
Tại khoản 2, 3 Điều 5 và Điều 11 Luật thuế XNK hiện hành đã có quy định các biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp trong nhập khẩu hàng hóa nhưng mới dừng ở việc định danh về các biện pháp này. Các nội dung quan trọng về điều kiện, nguyên tắc, thẩm quyền và thời hạn áp dụng cụ thể các biện pháp này đang được thực hiện theo quy định tại 3 Pháp lệnh trên.
Nhằm phát huy vai trò là công cụ góp phần bảo vệ môi trường kinh doanh, bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước trong điều kiện phải cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế, các nội dung về thuế áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu cần quy định thống nhất tại Luật thuế XNK để đảm bảo sự nhất quán trong thực hiện. Mặt khác, việc nâng một số quy định pháp lý từ Pháp lệnh thành nội dung Luật sẽ tạo sự rõ ràng, minh bạch trong quá trình hoàn thiện pháp luật Việt Nam, phù hợp với tinh thần Hiến pháp 2013 (Điều 70) là Quốc hội quy định các thứ thuế.
Trên cơ sở đó, bổ sung thêm Chương III quy định về thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ (từ Điều 12 đến Điều 15), quy định về điều kiện, nguyên tắc, thẩm quyền và thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ trên cơ sở kế thừa quy định tại 3 Pháp lệnh hiện hành. Trong đó, Điều 12 quy định về thuế chống bán phá giá; Điều 13 quy định về thuế chống trợ cấp; Điều 14 quy định về thuế tự vệ và Điều 15 quy định về việc áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ, bao gồm cả việc kê khai, thu, nộp, hoàn trả các loại thuế này và thẩm quyền áp dụng các biện pháp Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ; đồng thời, tại Điều 4 bổ sung thêm giải thích từ ngữ đối với 3 cụm từ nói trên. Các nội dung liên quan đến trình tự thủ tục, hồ sơ để thực hiện thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ, khiếu nại và xử lý vi phạm sẽ tiếp tục được thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp và Pháp lệnh về tự vệ.
Ngoài ra, để đảm bảo có đủ cơ sở pháp lý để áp dụng các biện pháp về thuế mới có thể cần thiết để xử lý các trường hợp phát sinh như áp dụng thuế trả đũa được phép áp dụng trong khuôn khổ giải quyết cơ chế tranh chấp của WTO và các hiệp định thương mại song phương và khu vực mà Việt Nam đã tham gia, tại khoản 5, Điều 15 Luật bổ sung nội dung quy định: “Trường hợp lợi ích của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bị xâm hại hay vi phạm, căn cứ vào các Điều ước quốc tế, Chính phủ báo cáo Quốc hội quyết định áp dụng biện pháp thuế phòng vệ khác phù hợp”.
1.2. Sửa đổi nguyên tắc, thẩm quyền ban hành Biểu thuế, thuế suất và thẩm quyền ban hành Biểu khung thuế xuất khẩu
a) Sửa đổi nguyên tắc ban hành Biểu thuế, thuế suất:
Tại Luật thuế XNK hiện hành đã quy định một số nguyên tắc xây dựng Biểu thuế, mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu làm cơ sở để Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho từng mặt hàng (Điều 12). Tuy nhiên, trong bối cảnh thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo các Hiệp định thương mại tự do thì một số nguyên tắc tại Luật hiện hành đã không còn phù hợp như nguyên tắc bảo đảm nguồn thu ngân sách; đồng thời, qua quá trình thực hiện cho thấy các nguyên tắc ban hành biểu thuế hiện hành chưa đảm bảo tính hợp lý giữa thuế suất thuế nhập khẩu đánh vào nguyên liệu, vật tư, linh kiện, phụ tùng, bán thành phẩm và sản phẩm nguyên chiếc; một số trường hợp thuế nhập khẩu của nguyên vật liệu cao hơn linh kiện, phụ tùng quan trọng trong nước chưa sản xuất được, cao hơn sản phẩm nguyên chiếc dẫn đến không khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ, không khuyến khích sản xuất để tạo thêm giá trị gia tăng; số lượng mức thuế suất của biểu thuế còn nhiều, tạo nên sự phức tạp, dễ nhầm lẫn, tranh chấp trong kê khai, tính thuế.
Để khắc phục và góp phần phát triển và bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; thúc đẩy cải cách hành chính, đơn giản hóa biểu thuế, thu gọn mức thuế suất, đảm bảo đơn giản, tạo thuận lợi cho cải cách thủ tục hành chính, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đối với công nghệ cao, công nghệ nguồn, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, tại Điều 10 Luật số 107/2016/QH13 quy định nguyên tắc ban hành biểu thuế, thuế suất như sau: (i) Khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu, ưu tiên loại trong nước chưa đáp ứng nhu cầu; chú trọng phát triển lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường; (ii) Phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước và các cam kết về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (iii) Góp phần bình ổn thị trường và nguồn thu NSNN; (iv) Đơn giản, minh bạch, tạo điều kiện cho cải cách thủ tục hành chính về thuế…
b) Sửa đổi thẩm quyền ban hành Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Tại Điều 12 của Luật thuế XNK hiện hành về thẩm quyền ban hành Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định: (i) UBTVQH ban hành Biểu thuế xuất khẩu theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng bao gồm cả mức tối thiểu và mức tối đa; (ii) Thủ tướng Chính phủ quyết định mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối và mức thuế tuyệt đối trong trường hợp cần thiết; (iii) Bộ trưởng Bộ Tài chính căn cứ vào khung thuế suất đối với từng nhóm hàng do UBTVQH ban hành để quy định áp dụng mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với từng mặt hàng theo thủ tục do Chính phủ quy định.
Tuy nhiên, với thẩm quyền hiện hành về quy định mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là chưa thống nhất, chưa phù hợp: Thủ tướng Chính phủ quy định mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp (thực tế chỉ áp dụng đối với sản phẩm duy nhất là ô tô cũ đã qua sử dụng). Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành các mức thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn lại.
Theo đó, để khắc phục hạn chế nói trên, đồng thời, đảm bảo phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013, Điều 11 Luật số 107/2016/QH13 quy định:
“1. Chính phủ căn cứ quy định tại Điều 10 Luật này, Biểu thuế xuất khẩu theo Danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất thuế xuất khẩu đối với từng nhóm hàng ban hành kèm theo Luật này; Biểu thuế ưu đãi cam kết tại Nghị định thư gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã được Quốc hội phê chuẩn và các Điều ước quốc tế khác để ban hành:
a) Biểu thuế xuất khẩu; Biểu thuế xuất khẩu ưu đãi;
b) Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi; Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt;
c) Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.”
c) Về Khung thuế suất và thẩm quyền ban hành:
Tại Điều 12 Luật thuế XNK hiện hành quy định: Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Biểu thuế xuất khẩu theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng, bao gồm cả mức tối thiểu và mức tối đa (sau đây gọi tắt là Biểu khung thuế suất). Biểu khung thuế suất nhập khẩu không áp dụng đối với các thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (FTA) theo các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
Việc quy định mức khung thuế suất nhập khẩu như thời gian qua đã phát huy tác dụng tích cực và là căn cứ để Bộ Tài chính ban hành mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với từng mặt hàng. Qua đó, đã đáp ứng tính chủ động, kịp thời trước những biến động giá cả của thị trường thế giới, góp phần bình ổn giá cả thị trường trong nước và phù hợp với tính chất đặc thù của Biểu thuế nhập khẩu được chi tiết với gần 10.000 ngàn dòng thuế và phải sửa đổi, cập nhật Danh mục định kỳ 5 năm/lần theo quy định của Tổ chức Hải quan thế giới và Ban thư ký ASEAN.
Tuy nhiên, kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007), nước ta đã cam kết cho 100% số dòng thuế nhập khẩu tại thời điểm gia nhập và phải cắt giảm hàng năm theo lộ trình cam kết, đến nay lộ trình này cơ bản hoàn thành. Do đó, việc quy định mức trần tối đa Biểu khung thuế suất thuế nhập khẩu như hiện hành thực tế không có ý nghĩa. Bên cạnh đó, việc xây dựng sàn thuế (tối thiểu) của Biểu khung thuế suất thuế nhập khẩu như hiện hành là cũng không cần thiết, cụ thể: hiện nay, Việt Nam đã ký 10 FTA với các nước, nhóm nước. Theo đó, đã cam kết xóa bỏ thuế quan vào thời điểm cuối cùng (2018 -2020) trung bình vào khoảng 90% số dòng thuế, riêng Hiệp định Thương mại Hàng hóa Asean (ATIGA) với mức cam kết tự do hóa đạt 97%. Khi ký kết các FTA thế hệ mới như TPP, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU… thì mức độ tự do hóa sẽ đạt 97-98% dòng thuế trong vòng 10 năm. Dự kiến đến giai đoạn 2028-2030, trên 80% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất theo các Hiệp định FTA là 0%. Theo đó, việc xây dựng Biểu khung thuế suất thuế nhập khẩu như hiện hành sẽ là không phù hợp trong giai đoạn mới. Do vậy, Luật thuế XNK (sửa đổi) không quy định Biểu khung thuế nhập khẩu.
Về Biểu khung thuế suất thuế xuất khẩu, hiện nay Biểu khung thuế xuất khẩu được thực hiện theo Nghị quyết số 710/2008/NQ-UBTVQH12 ngày 22/11/2008 của UBTVQH. Thực tế thực hiện thời gian qua cho thấy Biểu khung này là căn cứ quan trọng để Bộ Tài chính ban hành mức thuế xuất khẩu đối với một số loại hàng hóa, trong đó chủ yếu là tài nguyên, khoáng sản. Theo đó, cần tiếp tục quy định khung thuế suất thuế xuất khẩu đối với một số nhóm mặt hàng cần thu thuế xuất khẩu để góp phần bảo vệ tài nguyên trong nước, điều tiết hợp lý thu cho NSNN, đáp ứng yêu cầu đàm phán hội nhập trên tinh thần đối xử có đi có lại.
Đồng thời, để phù hợp với tinh thần Hiến pháp 2013 là Quốc hội có thẩm quyền quyết định các thứ thuế, cần thiết phải nâng thẩm quyền quyết định Biểu khung thuế xuất khẩu từ UBTVQH lên Quốc hội. Theo đó, Biểu khung thuế suất thuế xuất khẩu sẽ được ban hành kèm theo Luật này với mức sàn và mức trần được kế thừa cơ bản từ Biểu thuế và Khung thuế xuất khẩu ban hành theo Nghị quyết số 710/2008/NQ-UBTVQH12 của UBTVQH (với 45 nhóm hàng chịu thuế) đang được thực hiện ổn định, không vướng mắc trong thời gian qua.
d) Ngoài ra, để đảm bảo sự chủ động trong điều hành, nhất là trước các diễn biến khó lường của giá cả hàng hóa, nhu cầu sử dụng các loại tài nguyên, khoáng sản hiện nay, Luật năm 2016 có quy định giao thẩm quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc sửa đổi, bổ sung Khung thuế xuất khẩu trong trường hợp cần thiết. Nội dung này được thể hiện tại khoản 2, Điều 11 Luật: “2. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung Biểu thuế xuất khẩu theo Danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất thuế xuất khẩu đối với từng nhóm hàng ban hành kèm theo Luật này”.
1.3. Sửa đổi, bổ sung những quy định về ưu đãi thuế để khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, đẩy mạnh xã hội hóa.
a) Sửa đổi, bổ sung quy định về miễn thuế hàng nhập khẩu tạo tài sản cố định (TSCĐ) của dự án ưu đãi đầu tư:
Luật thuế XNK hiện hành quy định miễn thuế nhập khẩu tạo TSCĐ cho dự án ưu đãi đầu tư, dự án đầu tư bằng vốn ODA, bao gồm: phương tiện vận chuyển đưa đón công nhân (ô tô 24 chỗ trở lên), phương tiện vận chuyển chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ, trang thiết bị nhập khẩu lần đầu và nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để tạo tài sản cố định. Luật đầu tư số 67/2014/QH13 đã bổ sung và điều chỉnh một số quy định về đối tượng miễn thuế nhập khẩu tạo tài sản cố định, theo đó, cần sửa đổi, bổ sung vào Luật thuế XNK để đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất.
Theo quy định tại Luật đầu tư số 67/2014/QH13 thì các dự án ưu đãi đầu tư được xác định dựa trên danh mục ngành nghề, lĩnh vực hoặc địa bàn mà không theo nguồn vốn đầu tư. Theo đó, cũng cần điều chỉnh quy định của Luật thuế XNK hiện hành về miễn thuế nhập khẩu TSCĐ đối với dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA: nếu ODA theo cam kết tại các hiệp định vay ODA (điều ước quốc tế) có quy định miễn thuế thì thực hiện miễn thuế theo cam kết quốc tế, nếu là dự án ưu đãi đầu tư thì được miễn thuế theo dự án ưu đãi đầu tư, nếu là viện trợ không hoàn lại đã được quy định thuộc đối tượng không chịu thuế, nếu là ODA đi vay khác thì không phân biệt do Ngân sách đầu tư hay cho doanh nghiệp vay lại phục vụ sản xuất kinh doanh đều phải nộp thuế để đảm bảo sự bình đẳng giữa các dự án có cùng địa bàn, lĩnh vực nhưng sử dụng các nguồn vốn khác nhau.
Bên cạnh đó, đối với phương tiện vận chuyển đưa đón công nhân hiện nay trong nước đã sản xuất được xe ô tô trên 24 chỗ nên việc miễn thuế như hiện hành sẽ không khuyến khích sản xuất trong nước; một số quy định về miễn thuế đối với linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng; nguyên liệu, vật tư dùng để chế tạo thiết bị, máy móc có vướng mắc, bất cập do chỉ áp dụng miễn thuế khi nhập khẩu đồng bộ với máy móc thiết bị cũng cần được sửa đổi cho phù hợp.
Theo đó, tại khoản 11, Điều 16 Luật đã sửa đổi quy định về miễn thuế hàng nhập khẩu tạo TSCĐ của dự án ưu đãi đầu tư theo hướng:
– Bổ sung quy định về miễn thuế hàng hóa tạo TSCĐ cho các đối tượng ưu đãi đầu tư tại Luật đầu tư số 67/2014/QH13 (gồm 5 đối tượng ưu đãi: lĩnh vực ưu đãi đầu tư; địa bàn ưu đãi đầu tư; dự án đầu tư có quy mô vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm; dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên; doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ). Đồng thời, quy định việc miễn thuế nhập khẩu quy định tại khoản này không áp dụng đối với dự án đầu tư khai thác khoáng sản; dự án sản xuất sản phẩm có tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên; dự án sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
– Bỏ quy định về miễn thuế đối với phương tiện vận chuyển đưa đón công nhân; đồng thời, quy định rõ phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ thuộc đối tượng được miễn thuế là loại sử dụng trực tiếp cho hoạt động sản xuất của dự án.
– Miễn thuế đối với linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng; nguyên liệu, vật tư dùng để chế tạo thiết bị, máy móc hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng của máy móc thiết bị không phải chỉ thiết bị đi kèm của các dự án được hưởng ưu đãi của Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành có liên quan.
– Chuyển quy định về miễn thuế tạo TSCĐ của dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA sang áp dụng ưu đãi theo lĩnh vực và địa bàn đầu tư của các dự án được hưởng ưu đãi của Luật Đầu tư và các Luật chuyên ngành có liên quan.
– Bỏ quy định về miễn thuế tạo TSCĐ là trang thiết bị nhập khẩu lần đầu của dự án ưu đãi đầu tư vào một số lĩnh vực dịch vụ của các dự án đầu tư khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, nhà ở, trung tâm thương mại, dịch vụ kỹ thuật, sân golf, khu du lịch, khu thể thao, khu vui chơi giải trí, đào tạo, văn hoá, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, dịch vụ tư vấn do Luật đầu tư số 67/2014/QH13 đã không quy định các ngành nghề này là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và về cơ bản những trang thiết bị nhập khẩu lần đầu trong các lĩnh vực này trong nước hiện nay cũng đã sản xuất được.
b) Bổ sung quy định về miễn thuế nhập khẩu đối với giống cây trồng; giống vật nuôi; phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong nước chưa sản xuất được, cần thiết nhập khẩu theo quy định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền:
Căn cứ thẩm quyền được giao tại Luật thuế XNK hiện hành, tại Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ đã quy định: Giống cây trồng; vật nuôi nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp được miễn thuế nhập khẩu. Việc thực hiện quy định này là cần thiết, góp phần hỗ trợ lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp phát triển. Theo đó, để nâng cao tính pháp lý, đảm bảo tính minh bạch của chính sách, cần phải bổ sung nội dung này vào Luật. Ngoài ra, để khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn, Luật cũng đã bổ sung quy định về miễn thuế nhập khẩu đối với phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong nước chưa sản xuất được. Những nội dung này được thể hiện tại khoản 12, Điều 16 Luật.
c) Sửa đổi, bổ sung quy định về ưu đãi thuế nhập khẩu đối với hàng hóa là nguyên liệu, vật tư, linh kiện cho sản xuất của dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; địa bàn có điều kiện đặc biệt khó khăn:
Luật thuế XNK hiện hành quy định miễn thuế nhập khẩu 05 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất cho một số dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Để phù hợp với Luật đầu tư số 67/2014/QH13 và quy định tại một số Luật chuyên ngành như Luật công nghệ cao, Luật khoa học và công nghệ được Quốc hội thông qua gần đây, tại khoản 13 Điều 16 Luật sửa đổi quy định này theo hướng: bổ sung thêm doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ cũng được miễn thuế nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong thời hạn 5 năm.
Việc miễn thuế nhập khẩu quy định tại khoản này không áp dụng đối với dự án đầu tư khai thác khoáng sản; dự án sản xuất sản phẩm có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên dự án sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
d) Bổ sung quy định miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, lắp ráp trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo:
Để khuyến khích phát triển sản xuất trang thiết bị y tế thay thế hàng nhập khẩu theo các định hướng của Nhà nước, căn cứ thẩm quyền quy định tại Khoản 11 Điều 16 Luật thuế XNK hiện hành, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 54/2014/QĐ-TTg về việc miễn thuế nhập khẩu 05 năm đối với vật tư, thiết bị, linh kiện trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, lắp ráp sản phẩm trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo. Theo đó, để nâng cao tính pháp lý của quy định này, phù hợp với chủ trương khuyến khích phát triển ngành y tế của Đảng và Nhà nước, tại khoản 14, Điều 16 Luật số 107/2016/QH13 đã bổ sung quy định về miễn thuế đối với trường hợp này.
– Bổ sung quy định về ưu đãi thuế đối với ngành đóng tàu:
Căn cứ chủ trương chính sách của Nhà nước về phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, trong đó có ngành công nghiệp đóng tàu và thẩm quyền quy định tại Luật thuế XNK hiện hành, tại Nghị định số 87/2010/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định miễn thuế đối với tàu biển xuất khẩu; máy móc, thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện, bán thành phẩm; phương tiện vận tải nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định sử dụng trực tiếp cho hoạt động đóng tàu. Theo đó, để nâng cao tính pháp lý, đảm bảo sự ổn định của chính sách, bổ sung việc miễn thuế đối với các trường hợp này vào Luật. Nội dung này được thể hiện tại khoản 16, Điều 16 Luật số 107/2016/QH13.
– Bổ sung quy định về miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ hoạt động in, đúc tiền. Đây là hàng hóa đặc thù, cần được bảo mật thông tin nhập khẩu; đồng thời đối tượng nhập khẩu chỉ do Ngân hàng Nhà nước thực hiện nên việc bổ sung quy định này cũng tạo thuận lợi và đơn giản hóa thủ tục thu nộp ngân sách (khoản 17, Điều 16 Luật số 107/2016/QH13).
– Bổ sung quy định ưu đãi về thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, nội dung số, phần mềm và hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu để bảo vệ môi trường để đảm bảo thống nhất với quy định của một số Luật chuyên ngành.
+ Bổ sung quy định tại khoản 18 Điều 16 Luật số 107/2016/QH13 về miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, nguyên liệu, vật tư phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, nội dung số, phần mềm để thống nhất với quy định tại Luật Đầu tư số 67/2014/QH13.
+ Bổ sung quy định tại khoản 19 Điều 16 Luật số 107/2016/QH13 về miễn thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện, dụng cụ, vật tư nhập khẩu chuyên dùng nhập khẩu phải là loại trong nước chưa sản xuất được theo danh mục hàng hóa bảo vệ môi trường và sản phẩm xuất khẩu của hoạt động bảo vệ môi trường để thống nhất với quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
– Bổ sung nội dung quy định về điều kiện và thủ tục miễn thuế:
Luật thuế XNK hiện hành quy định tách riêng miễn thuế và xét miễn thuế thành 2 Điều (1 Điều miễn thuế, 1 Điều xét miễn thuế) để xử lý trong hoặc sau khi hàng hóa đã thông quan. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cho thấy quy định như vậy là không cần thiết vì bản chất là hàng hóa được miễn thuế nhưng được thực hiện theo các thủ tục khác nhau. Tại Điều 16 Luật đã quy định thống nhất miễn, xét miễn thuế thành một Điều. Theo đó, chuyển hàng quà biếu, quà tặng từ trường hợp xét miễn thuế sang trường hợp miễn thuế (khoản 2, Điều 16); chuyển hàng hóa nhập khẩu chuyên dùng phục vụ giáo dục, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ và cho an ninh, quốc phòng từ trường hợp xét miễn thuế theo Luật hiện hành sang trường hợp miễn thuế (khoản 20, 21, 22 Điều 16 Luật). Ngoài ra, để khuyến khích sản xuất trong nước, Luật số 107/2016/QH13 quy định hàng hóa nhập khẩu chuyên dùng cho giáo dục, máy móc, thiết bị, phụ tùng sử dụng cho nghiên cứu khoa học và phương tiện vận tải chuyên dùng cho an ninh, quốc phòng phải là loại trong nước chưa sản xuất được.
Đồng thời, Luật bổ sung quy định điều kiện miễn thuế cho các trường hợp thành 2 nhóm: Nhóm 1: Thực hiện thông báo hàng hóa miễn thuế dự kiến nhập khẩu với cơ quan hải quan; Nhóm 2: Thực hiện miễn thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
2. Nhóm quy định sửa đổi bổ sung để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất với văn bản pháp luật liên quan
2.1. Về phạm vi điều chỉnh:
Luật thuế XNK hiện hành quy định phạm vi điều chỉnh là: “Quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam; hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới và hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”. Để đảm bảo tính minh bạch về phạm vi điều chỉnh và thống nhất về cách quy định này tại các Luật thuế được Quốc hội thông qua gần đây, bao quát được vấn đề phòng vệ về thuế như phân tích ở trên, Điều 1 Luật đã sửa đổi quy định cụ thể phạm vi điều chỉnh của Luật như sau: “Luật này quy định về đối tượng chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, thời điểm tính thuế, biểu thuế, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”.
2.2. Về đối tượng chịu thuế, người nộp thuế:
– Về đối tượng chịu thuế: Luật thuế XNK hiện hành quy định đồng thời cả đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế. Để đảm bảo tính minh bạch của chính sách, Luật quy định theo phương pháp loại trừ là chỉ quy định về đối tượng chịu thuế trên cơ sở gộp Điều 1 và Điều 2 của Luật hiện hành thành một điều.
Đồng thời, rà soát một số quy định về đối tượng chịu thuế theo quy định của Luật thuế XNK hiện hành để sửa đổi cho phù hợp. Cụ thể, Điều 3 Luật thuế XNK hiện hành quy định đối tượng không chịu thuế chưa bao gồm hàng trung chuyển. Xét về tính chất, loại hình này tương tự như hàng quá cảnh, chuyển khẩu, không phát sinh các nghĩa vụ về thuế. Để khắc phục hạn chế này, cần loại trừ hàng trung chuyển vào đối tượng không chịu thuế. Đồng thời, qua rà soát, Luật Thương mại số 36/2005/QH11 và Luật Hải quan số 54/2014/QH13 không có quy định loại hình mượn đường (về bản chất đây là quá cảnh, không phải mượn đường), theo đó, Luật số 107/2016/QH13 đã bỏ quy định hàng hóa “mượn đường” ra khỏi đối tượng không chịu thuế.
– Về người nộp thuế: Luật thuế XNK hiện hành quy định tên tổ chức, cá nhân nộp thuế là “đối tượng nộp thuế”. Quy định này hiện không còn phù hợp với khái niệm người nộp thuế của Luật Quản lý thuế và chưa có sự thống nhất với quy định về người khai hải quan của Luật Hải quan, chưa bao quát hết các trường hợp người nộp thuế trên thực tế.
Theo đó, để thống nhất với Luật Quản lý thuế, Luật Hải quan, khắc phục vướng mắc hiện hành, tại Điều 3 Luật số 107/2016/QH13 sửa đổi khái niệm người nộp thuế và bổ sung các trường hợp người nộp thuế trên thực tế: các trường hợp được ủy quyền, bảo lãnh và nộp thay thuế, gồm: Đại lý làm thủ tục hải quan; Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh nộp thay cho người nộp thuế; Tổ chức tín dụng trong trường hợp bảo lãnh, nộp thay thuế cho người nộp thuế; Người xử lý tài sản đảm bảo trong trường hợp tài sản đảm bảo chưa nộp thuế; Người kinh doanh, tiêu thụ, sử dụng hàng hóa nhập khẩu chưa nộp thuế nhập khẩu.
2.3. Sửa đổi cụm từ “khu phi thuế quan”, bỏ giải thích cụm từ “tài sản di chuyển” tại Điều giải thích từ ngữ (Điều 4):
– Theo quy định của Luật thuế XNK hiện hành thì hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan thuộc đối tượng không chịu thuế. Tuy nhiên chưa có quy định rõ tiêu chí khu phi thuế quan để được hưởng chính sách ưu đãi về thuế, do vậy, đã dẫn đến tình trạng lợi dụng chính sách, gian lận thương mại, buôn lậu. Để minh bạch, nâng cao tính pháp lý, tại điểm c, khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi theo hướng quy định rõ hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan thuộc đối tượng không chịu thuế.
Đồng thời, bổ sung quy định rõ, cụ thể tiêu chí của khu phi thuế quan để được hưởng chính sách đảm bảo phù hợp thông lệ quốc tế, đảm bảo phù hợp thực tế, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại. Khu phi thuế quan phải là những khu có hàng rào cứng, mọi hoạt động xuất nhập cảnh của phương tiện, xuất nhập khẩu của hàng hóa phải được giám sát quản lý hải quan và của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan (bộ đội, biên phòng, cơ quan kiểm dịch, kiểm tra tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa…). Nội dung này được thể hiện trong khoản 1, Điều 4 Luật.
– Đối với cụm từ “tài sản di chuyển” đã được quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật Hải quan số 54/2014/QH13, theo đó, Luật sửa đổi đã bỏ cho phù hợp.
2.4. Sửa đổi quy định về thuế suất thông thường:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật thuế XNK hiện hành thì thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế suất thông thường được quy định không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định.
Triển khai quy định trên, tại các Nghị định, Chính phủ đã quy định thuế suất thông thường bằng 150% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng. Mặt khác, thực tế thời gian qua có phát sinh vướng mắc trong xử lý đối với nhập khẩu không khai báo hải quan không xác định được xuất xứ của hàng hóa nên để ngăn chặn hành vi vi phạm, đã áp dụng thuế suất thông thường cho loại hàng hóa này. Để nâng cao tính pháp lý, tại điểm c, khoản 3, Điều 5 Luật đã bổ sung quy định: thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu không thuộc các trường hợp áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường được quy định bằng 150% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng. Đồng thời, để có cơ sở thực hiện cho trường hợp nhập khẩu các hàng hóa có mức thuế suất ưu đãi bằng 0%, Luật có bổ sung quy định: “Trường hợp mức thuế suất ưu đãi bằng 0%, Thủ tướng Chính phủ căn cứ quy định tại Điều 10 của Luật này để quyết định việc áp dụng mức thuế suất thông thường”. Nội dung này được thể hiện ở điểm c, khoản 3, Điều 5 của Luật.
2.5. Sửa đổi quy định về trị giá tính thuế, thời điểm tính thuế và thời hạn nộp thuế đối với người nộp thuế là doanh nghiệp ưu tiên:
a) Về trị giá tính thuế: Khoản 1, 2 Điều 9 Luật thuế XNK hiện hành quy định: Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá bán tại cửa khẩu xuất theo hợp đồng. Giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng. Quy định này đến nay không đảm bảo sự thống nhất với quy định tại Điều 86 Luật Hải quan số 54/2014/QH13 và chưa phù hợp với thông lệ, cam kết quốc tế là: Trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu là giá bán của hàng hóa tính đến cửa khẩu xuất, không bao gồm phí bảo hiểm và phí vận tải quốc tế. Trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên.
Theo đó, để phù hợp với Luật Hải quan, khoản 1, Điều 8 của Luật thuế XNK năm 2016 đã quy định như sau:
“1. Trị giá tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là trị giá hải quan theo quy định của Luật hải quan”.
b) Về thời điểm tính thuế: Điều 14 Luật thuế XNK hiện hành quy định: Thời điểm tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan. Quá trình thực hiện thời gian qua cho thấy quy định này chưa phù hợp với trường hợp chuyển đổi đối tượng sử dụng so với khi nhập khẩu ban đầu – chuyển từ đối tượng miễn thuế sang đối tượng chịu thuế (mức thuế suất, tỷ giá, trị giá khi đăng ký tờ khai khác với khi chuyển đổi mục đích sử dụng). Theo đó, để xử lý vướng mắc đối với trường hợp hàng hóa được ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhưng có sự thay đổi về mục đích sử dụng, tại khoản 2 Điều 8 Luật sửa đổi quy định thời điểm tính thuế như sau:
“2. Thời điểm tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan.
Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hoặc áp dụng thuế suất, mức thuế tuyệt đối trong hạn ngạch thuế quan nhưng được thay đổi về đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, áp dụng thuế suất, mức thuế tuyệt đối trong hạn ngạch thuế quan theo quy định của pháp luật thì thời điểm tính thuế là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan mới.
Thời điểm đăng ký tờ khai hải quan thực hiện theo quy định của pháp luật về hải quan”.
c) Về thời hạn nộp thuế đối với người nộp thuế là doanh nghiệp ưu tiên: Luật quản lý thuế hiện hành quy định phải nộp thuế trước khi thông quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu để kinh doanh, chưa phân biệt mức độ chấp hành tốt pháp luật của doanh nghiệp. Hiện nay, có 42 doanh nghiệp ưu tiên với tổng số kim ngạch xuất nhập khẩu khoảng 67,47 tỷ USD theo các tiêu chí của quốc tế: Không vi phạm pháp luật về thuế, về hải quan trong hai năm liên tục; Thực hiện thanh toán qua ngân hàng theo quy định của pháp luật; Thực hiện thủ tục hải quan, thủ tục thuế điện tử; Tuân thủ pháp luật về kế toán, thống kê; Chấp hành tốt pháp luật hải quan, pháp luật thuế.
Nếu quy định các doanh nghiệp này phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng như các doanh nghiệp khác là chưa hợp lý, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa thể hiện ưu đãi đối với các doanh nghiệp này. Quy định người nộp thuế là doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu tiên thực hiện nộp thuế đối với hàng nhập khẩu kinh doanh theo định kỳ (các tờ khai hải quan đã thông quan trong tháng nộp thuế chậm nhất vào ngày thứ 10 của tháng kế tiếp). Theo hướng này, doanh nghiệp chỉ phải kê khai nộp thuế 1 tháng 1 lần. Theo đó, để phù hợp với thực tiễn hiện nay, tại khoản 2, Điều 9 Luật đã bổ sung quy định về thời hạn nộp thuế đối với người nộp thuế là doanh nghiệp ưu tiên; Đồng thời, Luật đã chuyển quy định về thời hạn nộp thuế hiện đang quy định tại Luật quản lý thuế vào Luật này để đảm bảo sự thống nhất về việc quy định thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
2.6. Bổ sung quy định miễn thuế và quản lý thu thuế đối với hàng hóa mua bán trao đổi của cư dân biên giới phục vụ cho sản xuất và đời sống của cư dân:
Theo quy định hiện hành tại Quyết định 254/2006/QĐ-TTg ngày 07/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định 139/2009/QĐ-TTg ngày 23/12/2009 sửa đổi, bổ sung Quyết định 254/2006/QĐ-TTg, cư dân biên giới được miễn thuế với trị giá 2 triệu đồng/người/ngày/lượt. Việc thực hiện quy định này trong thời gian qua đã góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các nước có chung biên giới (Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia), tạo điều kiện thuận lợi cho cư dân biên giới tiêu thụ sản phẩm do mình sản xuất ra; mua được vật tư cần thiết phục vụ sản xuất và tiêu dùng hàng ngày. Tuy nhiên, do chính sách chưa có quy định quản lý thuế đối với phần hàng hóa của cư dân không sử dụng nên thực tế đã xảy ra tình trạng lợi dụng để thu gom hàng hoá được miễn thuế đem vào nội địa, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Đồng thời, ở các chợ biên giới, nhiều thương gia nước ngoài sang kinh doanh buôn bán nhưng chính sách pháp lý về thuế xuất nhập khẩu đối với những đối tượng này chưa đầy đủ, chưa phù hợp thực tế.
Để đảm bảo tính minh bạch và nâng tính pháp lý, hạn chế gian lận thương mại, góp phần hạn chế nhập siêu, tại khoản 3, Điều 16 Luật thuế XK, thuế NK số 107/2016/QH13 quy định về miễn thuế đối với: “Hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới thuộc Danh mục hàng hóa và trong định mức để phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng của cư dân biên giới”. Đồng thời, bổ sung quy định: “Trường hợp thu mua, vận chuyển hàng hóa trong định mức nhưng không sử dụng cho sản xuất, tiêu dùng của cư dân biên giới và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân nước ngoài được phép kinh doanh ở chợ biên giới thì phải nộp thuế.
2.7. Bổ sung việc miễn thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong trường hợp để đảm bảo an sinh xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh và các trường hợp đặc biệt khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
Bên cạnh các trường hợp được miễn thuế đã được quy định cụ thể, tại Khoản 11 Điều 16 Luật thuế XNK hiện hành đã quy định về thẩm quyền miễn thuế nhập khẩu đối với một số trường hợp đặc biệt khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc thực hiện quy định này thời gian qua đã tạo điều kiện để xử lý một số trường hợp đặc thù, không nhằm mục đích kinh doanh, hoặc có lý do bất khả kháng mà yêu cầu của thực tiễn phải miễn thuế nhập khẩu; ví dụ, hàng nhập khẩu sử dụng cho các đoàn vận động viên tham gia sự kiện thể thao như SeaGames, pháo hoa nhập khẩu để thi bắn pháo hoa, nguyên vật liệu nhập khẩu để gia công hoặc sản xuất xuất khẩu bị cháy…
Để đảm bảo tính pháp lý, minh bạch trong quá trình chuẩn hóa chính sách miễn thuế, Luật thuế XK, thuế NK sửa đổi đã bổ sung quy định về nguyên tắc được miễn thuế đối với các trường hợp cụ thể do Thủ tướng Chính phủ quyết định, đó là hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp đặc biệt để bảo đảm an ninh, xã hội khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh. Nội dung này được thể hiện tại Khoản 23, Điều 16 của Luật.
3. Nhóm vấn đề sửa đổi, bổ sung để phù hợp các cam kết quốc tế và điều ước quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
3.1. Bổ sung quy định tại khoản 2, Điều 5 Luật số 107/2016/QH13 về áp dụng thuế xuất khẩu đối với trường hợp có hàng hóa xuất khẩu sang nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi về thuế xuất khẩu để phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế với các cam kết liên quan thuế xuất khẩu, tạo điều kiện cho việc thực hiện các cam kết cắt giảm thuế xuất khẩu trong khuôn khổ một số Hiệp định FTA quan trọng như Hiệp định TPP, Hiệp định Việt Nam – EU.
3.2. Bổ sung quy định tại điểm a, b, khoản 3, Điều 5 Luật số 107/2016/QH13 về áp dụng thuế suất đối với hàng hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu vào thị trường nội địa đáp ứng các điều kiện về xuất xứ thì được áp dụng theo mức thuế suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt tương ứng để bao quát hết được các trường hợp phát sinh trên thực tiễn, đảm bảo tính minh bạch của Luật.
3.3. Bổ sung quy định tại khoản 4, Điều 16 Luật số 107/2016/QH13 về miễn thuế đối với hàng hóa được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo Điều ước quốc tế để minh bạch, phù hợp với Luật ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế và thống nhất với quy định của các Luật khác.
3.4. Bổ sung quy định tại khoản 5, khoản 10 Điều 16 Luật số 107/2016/QH13 về miễn thuế đối với hàng hóa có trị giá tối thiểu hoặc có số tiền thuế phải nộp dưới mức tối thiểu; miễn thuế đối với hàng mẫu, phim, ảnh, mô hình để làm mẫu, ấn phẩm quảng cáo không nhằm mục đích thương mại để tạo thuận lợi cho người khai hải quan và người nộp thuế, phù hợp với Chuẩn mực 4.13 và Chuẩn mực 4.24 Chương 4 của công ước Kyoto sửa đổi cũng như dự kiến phải cam kết tại Hiệp định TPP và Hiệp định Việt Nam – EU.
3.5. Bổ sung quy định tại khoản 9, Điều 16 Luật số 107/2016/QH13 về miễn thuế cho một số hàng hóa thuộc chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập có thời hạn, không mang mục đích thương mại nhằm phù hợp với điểm 22 thực hành khuyến nghị Phụ lục G Công ước Kyoto (như miễn thuế đối với một số hàng hóa tạm nhập-tái xuất, tạm xuất-tái nhập có thời hạn như máy móc, thiết bị, phim, ảnh để tham dự hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm, sự kiện thể thao, văn hóa, nghệ thuật; máy móc, thiết bị tạm nhập, tái xuất để thử nghiệm, nghiên cứu phát triển sản phẩm, hàng hóa là phương tiện quay vòng như container, palet, máy móc, thiết bị tạm nhập, tái xuất để thử nghiệm, nghiên cứu phát triển sản phẩm; hàng bảo hành, sửa chữa …).
4. Nhóm vấn đề sửa đổi, bổ sung để đơn giản hóa, tạo thuận lợi cho người nộp thuế; góp phần thực hiện cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
4.1. Chuyển hàng hóa là nguyên liệu, vật tư nhập để sản xuất xuất khẩu từ đối tượng phải nộp thuế khi nhập khẩu, được hoàn thuế khi xuất khẩu sang đối tượng miễn thuế.
Theo quy định tại khoản 1d, Điều 19 Luật thuế XNK hiện hành, nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu thuộc đối tượng tạm nộp thuế, sau khi xuất khẩu sản phẩm sản xuất từ nguyên liệu này sẽ được hoàn lại thuế; máy móc thiết bị nhập khẩu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu phải nộp thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, Luật cũng quy định hàng hóa nhập khẩu để gia công sau đó xuất khẩu sản phẩm gia công thuộc đối tượng miễn thuế (bao gồm cả nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị). Về bản chất kinh tế thì hai trường hợp này giống nhau, đều là hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu, không tiêu dùng tại Việt Nam, nhưng chế độ thuế, chế độ quản lý hải quan áp dụng khác nhau.
Theo đó, để khuyến khích sản xuất xuất khẩu, đơn giản thủ tục hành chính trong việc thu nộp và hoàn thuế (tương tự như phương thức quản lý đối với hàng gia công xuất khẩu) tại khoản 7, Điều 16 Luật số 107/2016/QH13 đã chuyển hàng hóa là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu từ đối tượng hoàn thuế sang đối tượng miễn thuế.
4.2. Chuyển hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất (TNTX) từ đối tượng chịu thuế ở khâu nhập khẩu và thực hiện hoàn thuế khi xuất khẩu sang đối tượng miễn thuế có điều kiện về bảo lãnh, đặt cọc.
Theo quy định hiện hành của Luật thuế XNK, hàng hóa kinh doanh TNTX tạm nộp thuế hoặc thực hiện bảo lãnh khi tạm nhập và được hoàn thuế khi tái xuất. Trên thực tế các doanh nghiệp thực hiện bảo lãnh khi tạm nhập khẩu hàng hóa trong khi cơ quan hải quan phải theo dõi trên sổ kế toán số tiền thuế này làm tăng chi phí quản lý thuế. Để khắc phục vướng mắc và phù hợp với thông lệ quốc tế, tại điểm e, khoản 9, Điều 16 Luật số 107/2016/QH13 quy định chuyển hàng kinh doanh TNTX từ đối tượng hoàn thuế sang đối tượng miễn thuế trong thời hạn TNTX với điều kiện phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng hoặc đặt cọc một khoản tiền tương đương số tiền thuế nhập khẩu của hàng tạm nhập tái xuất.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành:
Để triển khai Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2016, dự kiến trình Chính phủ ban hành các Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành như sau:
– Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi);
– Nghị định về kinh doanh hàng miễn thuế;
– Nghị định của Chính phủ quy định biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan;
– Nghị định của Chính phủ quy định về thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để áp dụng Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Lào;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN-Úc-Niu-Di-lân giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – Ấn Độ giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN – Hàn Quốc giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN – Trung Quốc giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Chi Lê giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn 2016-2017;
– Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu giai đoạn 2016-2017.
2. Tuyên truyền, phổ biến về Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
– Thực hiện các hoạt động phổ biến pháp luật theo Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2016 của Bộ Tài chính (ban hành kèm theo Quyết định số 2739/QĐ-BTC ngày 22/12/2015) và Kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp năm 2016 của Bộ Tài chính (ban hành kèm theo Quyết định số 2740/QĐ-BTC ngày 22/12/2015); theo đó, Bộ Tài chính sẽ phổ biến rộng rãi về nội dung của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho các cơ quan, đơn vị, cán bộ công chức hải quan cũng như doanh nghiệp có hoạt động xuất, nhập khẩu.
– Thực hiện các hoạt động phổ biến theo Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức hải quan; tuyên truyền, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho người khai hải quan, người nộp thuế của ngành hải quan năm 2016 (ban hành kèm theo Quyết định số 46/QĐ-TCHQ ngày 13/1/2016 của Tổng cục hải quan).
– Thực hiện thông tin, tuyên truyền trên các chương trình phát thanh, truyền hình trung ương, địa phương; tin, bài phổ biến trên các báo, tạp chí trong và ngoài ngành Tài chính.
3. Các điều kiện đảm bảo thi hành Luật
– Kinh phí triển khai Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi) được bố trí từ ngân sách nhà nước trong dự toán chi thường xuyên hàng năm và các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
– Các cơ quan được phân công chủ trì thực hiện các nhiệm vụ cụ thể quy định có trách nhiệm lập dự toán kinh phí bảo đảm việc triển khai thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi), gửi cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự toán ngân sách hàng năm theo quy định của pháp luật.
4. Tác động chính sách của Luật đến người dân, xã hội
Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của quốc gia và chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố như sự biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế. Xuất phát từ những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng như nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của nước ta trong thời gian tới, việc ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi) sẽ có tác động tích cực tới phát triển kinh tế – xã hội.
Theo đó, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi) sẽ khắc phục được những vướng mắc, bất cập hiện nay, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo hành lang pháp lý ổn định cho các hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển sản xuất và xuất khẩu, hỗ trợ dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời, bảo hộ hợp lý, có điều kiện, có chọn lọc đối với một số nhóm mặt hàng, ngành nghề cụ thể phù hợp với tiến trình hội nhập; tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu qua đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Việc xây dựng Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, thay thế Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành sẽ góp phần đảm bảo xây dựng Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo hướng đơn giản, tạo thuận lợi cho cải cách thủ tục hành chính, khuyến khích phát triển và bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường phù hợp với chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước.
Mặt khác, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi) sẽ góp phần phòng chống gian lận thương mại hiệu quả; đồng thời Luật sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng các biện pháp phòng vệ về thuế, bảo vệ sản xuất trong nước trong trường hợp các ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại do các hành vi bán phá giá, trợ cấp,… của các đối tác thương mại, phù hợp thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; đảm bảo hình thành hệ thống chính sách thuế đồng bộ, minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế và cán bộ hải quan trong việc thực thi pháp Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu./.
>>> Các bài viết quan tâm khác: Đề cương giới thiệu Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm
Với slogan: “Là điểm tựa của niềm tin”