BỘ TƯ PHÁP VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
|
BỘ CÔNG AN
CỤC PHÁP CHẾ VÀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH, TƯ PHÁP
|
ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
LUẬT THI HÀNH TẠM GIỮ, TẠM GIAM
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam (sau đây gọi tắt là Luật) được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015 tại kỳ họp thứ 10; được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 08/12/2015. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
Tạm giữ, tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, do cơ quan, người tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị bắt quả tang, truy nã, khẩn cấp và đối với bị can, bị cáo nhằm cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, hoặc trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử, cản trở việc xác định sự thật của vụ án, hoặc để bảo đảm thi hành án.
Những năm qua, việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam đã được tổ chức chặt chẽ, phục vụ có hiệu quả cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ tốt quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Từ năm 1998 đến hết năm 2014, các trại tạm giam, nhà tạm giữ trên toàn quốc đã tiếp nhận, quản lý giam giữ 2.039.012 lượt người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Hiện tại, toàn quốc có 83 trại tạm giam (Công an nhân dân có 70, Quân đội nhân dân có 13), 734 nhà tạm giữ (Công an nhân dân có 700, Quân đội nhân dân có 34) và 224 buồng tạm giữ thuộc các đồn biên phòng ở nơi biên giới, hải đảo xa trung tâm hành chính cấp huyện, đang trực tiếp quản lý giam giữ 47.827 người bị tạm giam, 1.010 người bị tạm giữ.
Tổng kết thực tiễn 16 năm thực hiện Quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 và Nghị định số 09/2011/NĐ-CP ngày 25/11/2011), bên cạnh thuận lợi và kết quả đã đạt được, việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc như: Quy định của pháp luật hiện hành về chế độ quản lý giam giữ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam chưa cụ thể (đặc biệt là việc thăm gặp thân nhân, người bào chữa của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và việc thực hiện các quyền nhân thân của họ nếu không bị hạn chế bởi biện pháp tạm giữ, tạm giam, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tạm giữ, tạm giam…); chế độ ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam còn chưa phù hợp với điều kiện thực tế; chưa có quy định về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đồng tính hoặc người có khiếm khuyết về giới tính; chưa có quy định cụ thể về việc cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam mang quốc tịch nước ngoài tiếp xúc lãnh sự; việc phân loại giam giữ theo quy định của Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 rất khó để bảo đảm thực hiện được trong thực tế; việc quản lý người bị kết án tử hình gặp nhiều khó khăn do chưa có cơ chế phù hợp; tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý trại tạm giam, nhà tạm giữ được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, còn chưa có sự thống nhất, gây khó khăn cho công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo; điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính chưa đáp ứng yêu cầu thực tế nên hạn chế hiệu quả công tác quản lý giam giữ; đội ngũ cán bộ, chiến sĩ làm công tác quản lý trại tạm giam, nhà tạm giữ hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng v.v…
Mặt khác, tạm giữ, tạm giam là các biện pháp ngăn chặn có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ của cá nhân. Theo khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật. Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định việc giam, giữ người do luật định. Trong khi, công tác quản lý giam, giữ hiện nay mới chỉ được điều chỉnh bởi các Nghị định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành (Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam; Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam, Nghị định số 09/2011/NĐ-CP ngày 25/11/2011 sửa đổi, bổ sung chế độ ăn và khám, chữa bệnh đối với người bị tạm giữ, tạm giam theo quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998; Nghị định số 64/2011/NĐ-CP ngày 28/7/2011 của Chính phủ quy định việc thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh và Thông tư số 08/2001/TT-BCA ngày 12/11/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế về tạm giữ, tạm giam).
Vì vậy, việc xây dựng, ban hành Luật trong tình hình hiện nay là cần thiết nhằm tháo gỡ khó khăn, hạn chế, bất cập, bảo đảm hiệu quả công tác quản lý giam giữ phục vụ có hiệu quả cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong tình hình mới.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
Luật được xây dựng trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Quán triệt và thể chế hoá đầy đủ các chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước về thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam; đặt trong tổng thể và bảo đảm đồng bộ với quá trình cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta.
2. Tổng kết đầy đủ và toàn diện các quy định của pháp luật về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam ở nước ta trong những năm qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam hiện nay và trong những năm tiếp theo.
3. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; bảo đảm các quy định của Luật có tính khả thi.
4. Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam của một số nước trên thế giới phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam; bảo đảm phù hợp với pháp luật, thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
III. BỐ CỤC VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Bố cục của Luật
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam gồm có 11 chương, 73 điều.
Chương I. Quy định chung gồm 09 điều (từ Điều 1 đến Điều 9) quy định phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên tắc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; kiểm soát hoạt động, quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; giám sát việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam; những hành vi bị nghiêm cấm; quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
Chương II. Hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 06 điều (từ Điều 10 đến Điều 15);
Chương III. Chế độ quản lý giam giữ gồm 11 điều (từ Điều 16 đến Điều 26);
Chương IV. Chế độ của người bị tạm giữ người bị tạm giam gồm 05 điều (từ Điều 27 đến Điều 31);
Chương V. Chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi gồm 04 điều (từ Điều 32 đến Điều 35);
Chương VI. Chế độ đối với người bị kết án tử hình đang bị tạm giam gồm 02 điều (Điều 36 và Điều 37);
Chương VII. Bảo đảm điều kiện quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 04 điều (từ Điều 38 đến Điều 41);
Chương VIII. Kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 02 điều (Điều 42 và Điều 43);
Chương IX. Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 2 mục với 18 điều (từ Điều 44 đến Điều 61):
Mục 1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 12 điều (từ Điều 44 đến Điều 55);
Mục 2. Tố cáo và giải quyết tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 06 điều (từ Điều 56 đến Điều 61).
Chương X. Trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 10 điều (từ Điều 62 đến Điều 71);
Chương XI. Điều khoản thi hành gồm 02 điều (Điều 72 và Điều 73).
2. Những nội dung cơ bản của Luật
2.1. Về tên gọi
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 thì tên gọi của dự án là Luật tạm giữ, tạm giam. Trong quá trình xây dựng dự án Luật, có ý kiến đề nghị lấy tên gọi là Luật tổ chức và thi hành tạm giữ, tạm giam; ý kiến khác lại đề nghị lấy tên gọi là Luật hoạt động tạm giữ, tạm giam hoặc Luật thi hành và quản lý việc tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, do luật này chỉ quy định về trình tự, thủ tục thi hành và các điều kiện bảo đảm thi hành quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, lệnh tạm giam, quyết định tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam, quyền, nghĩa vụ, chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam chứ không quy định về thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục ra quyết định tạm giữ, tạm giam (đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự), nên nếu lấy tên gọi là Luật tạm giữ, tạm giam thì không phù hợp với phạm vi điều chỉnh và dễ dẫn đến hiểu luật này điều chỉnh cả thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Hơn nữa, trong Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự cũng đều có quy định về mô hình, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ sở vật chất của các cơ quan thi hành án. Do đó, sau nhiều lần thảo luận, Quốc hội thống nhất lấy tên gọi là Luật thi hành tạm giữ, tạm giam để bảo đảm phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật.
2.2. Về quy định chung
a) Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng (Điều 1, Điều 2)
– Trong quá trình xây dựng Luật, có ý kiến đề nghị phạm vi điều chỉnh của Luật nên bao gồm cả chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và chế độ quản lý tạm giữ hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, qua thảo luận, đa số ý kiến cho rằng tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và tạm giữ hành chính là hai biện pháp ngăn chặn có tính chất, mức độ khác nhau và chế độ quản lý cũng khác nhau. Do đó, Luật này chỉ quy định về chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự, còn chế độ quản lý tạm giữ hành chính nên để cho các văn bản pháp luật chuyên ngành khác điều chỉnh như hiện nay là phù hợp. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị trong Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cả về điều kiện, trình tự, thủ tục và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, những quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam có liên quan trực tiếp đến thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự; thực tiễn thi hành trong thời gian qua cho thấy là phù hợp, do đó, đa số ý kiến đề nghị không quy định trong Luật này. Trên cơ sở thảo luận, Quốc hội quyết định Luật chỉ quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành tạm giữ, tạm giam; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong thi hành tạm giữ, tạm giam.
– Về đối tượng áp dụng, Luật áp dụng đối với người bị tạm giữ, tạm giam; cơ quan người có thẩm quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện kiểm sát nhân dân; Tòa án nhân dân; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
b) Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
Trong Luật có 08 từ ngữ cần phải được giải thích để hiểu và áp dụng thống nhất bao gồm: Người bị tạm giữ; người bị tạm giam; chế độ tạm giữ, tạm giam; cơ sở giam giữ; trích xuất; danh bản; chỉ bản; thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Người bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị cáo, người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án, người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ.
Chế độ tạm giữ, tạm giam là chế độ quản lý giam giữ người bị tạm giữ, người bị tạm giam và chế độ ăn, ở, mặc, tư trang, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo và tài liệu, gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Cơ sở giam giữ là nơi tổ chức giam giữ, quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bao gồm trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng.
Trích xuất là việc đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam ra khỏi cơ sở giam giữ trong thời gian nhất định theo lệnh, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền để thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự, khám bệnh, chữa bệnh, thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự, thực hiện quyền, nghĩa vụ khác do luật định.
Danh bản là bản ghi thông tin tóm tắt về lý lịch, nhân dạng, ảnh chụp ba tư thế, in dấu vân hai ngón tay trỏ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam do cơ quan có thẩm quyền lập và lưu giữ.
Chỉ bản là bản ghi thông tin tóm tắt về lý lịch và in dấu vân tay của tất cả các ngón của người bị tạm giữ, người bị tạm giam do cơ quan có thẩm quyền lập và lưu giữ.
Thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người có quan hệ ông bà nội, ông bà ngoại; bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, bố mẹ vợ, bố mẹ chồng; vợ, chồng; anh chị em ruột hoặc con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; cháu ruột với người bị tạm giữ, người bị tạm giam mà người bị tạm giữ, người bị tạm giam là ông bà nội, ông bà ngoại.
c) Nguyên tắc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 4)
Việc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh lệnh, quyết định về tạm giữ, tạm giam, trả tự do của cơ quan, người có thẩm quyền; tổ chức, thực hiện quản lý giam giữ nghiêm ngặt và chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của cơ quan, người có thẩm quyền; bảo đảm nhân đạo; không tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan; áp dụng các biện pháp quản lý giam giữ phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, độ tuổi, giới tính, sức khỏe; bảo đảm bình đẳng giới, quyền, lợi chính đáng của phụ nữ, trẻ em và các đặc điểm nhân thân khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
d) Về trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 5)
Để công tác quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam được tiến hành thuận lợi, đáp ứng được mục đích, yêu cầu của việc quản lý giam giữ, phục vụ có hiệu quả cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, Điều 5 của Luật đã quy định về trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp và thực hiện yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật này trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
đ) Về kiểm sát hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và giám sát việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam (Điều 6, Điều 7)
Việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam do Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự; mọi hoạt động của cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan; mọi hoạt động tạm giữ, tạm giam được Quốc hội, Hội đông nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát theo quy định của pháp luật.
e) Về những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8)
Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong quản lý giam giữ và để bảo đảm việc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam tuân thủ đúng quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Điều 8 của Luật đã quy định 07 nhóm hành vi bị nghiêm cấm như sau:
– Nghiêm cấm việc tra tấn, truy bức, dùng nhục hình; các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hoặc bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
– Không chấp hành lệnh, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền về tạm giữ, tạm giam, trả tự do;
– Giam giữ người trái pháp luật; trả tự do trái pháp luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam; vi phạm quy định trong quản lý, canh gác, áp giải người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
– Cản trở người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền thăm gặp thân nhân, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, tiếp xúc lãnh sự, khiếu nại, tố cáo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ khác của công dân theo quy định của Luật này và luật khác có liên quan;
– Phá hủy cơ sở giam giữ, huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của cơ sở giam giữ; tổ chức trốn hoặc trốn khỏi nơi giam giữ; tổ chức trốn hoặc trốn khi đang bị áp giải; đánh tháo người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
– Không chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ hoặc quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam;
– Thực hiện hoặc tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp sức, che dấu, ép buộc người khác vi phạm pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; trả thù, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác trong thi hành tạm giữ, tạm giam.
g) Về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 9)
Trước đây quy chế tạm giữ, tạm giam chưa quy định rõ ràng, cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam đã nảy sinh nhiều vướng mắc trong thực tiễn thi hành tạm giữ, tạm giam và cũng chưa có cơ sở để bảo đảm tốt hơn quyền của người bị tạm giữ, tạm giam. Để khắc phục vướng mắc, bất cập đó, căn cứ quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc bảo đảm hoặc hạn chế quyền con người, quyền, nghĩa vụ của công dân trong các trường hợp cần thiết vì lý do an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, Luật đã đưa nội dung quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam vào phạm vi điều chỉnh của Luật. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó về kỹ thuật lập pháp và trong quá trình xây dựng Luật có ý kiến cho rằng Luật chỉ nên quy định các quyền cơ bản của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, còn những quyền đang được điều chỉnh bởi các luật khác thì loại bỏ để bảo đảm tính linh hoạt và tránh trùng lặp. Cũng có ý kiến cho rằng, chỉ nên quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà người bị tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế, còn các quyền khác không bị hạn chế thì họ đương nhiên được hưởng theo quy định của pháp luật có liên quan. Ý kiến khác lại đề nghị quy định cụ thể trong Luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng những quyền gì và bị hạn chế những quyền gì; đồng thời tách riêng quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ với quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giam; bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải khác với quyền của người chấp hành án phạt tù theo đúng tinh thần của Bộ luật tố tụng hình sự.
Qua thảo luận, Quốc hội thấy rằng, quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam hiện nay được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau và đang có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013, như Luật khám, chữa bệnh quy định về việc không cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh cho người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự (trong đó có người bị tạm giữ, người bị tạm giam); Luật việc làm quy định về chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với người đang bị tạm giam; Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mới bổ sung quy định về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; Luật bảo hiểm xã hội quy định về việc tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người bị tạm giam; Bộ luật dân sự quy định về quyền nhân thân, quyền tài sản của công dân (bao gồm cả người bị tạm giữ, người bị tạm giam)… Do đó, để bảo đảm tính khả thi và tránh trùng lặp, chồng chéo với các đạo luật hiện hành, linh hoạt khi phải sửa đổi, bổ sung, Luật đã quy định cụ thể những quyền cơ bản nhất của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, còn các quyền khác chỉ quy định mang tính nguyên tắc “được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam”, cụ thể như sau:
– Về quyền, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy của cơ sở giam, giữ; được thực hiện quyền bầu cử theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo Luật trưng cầu ý dân; được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo, tài liệu; được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự; được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý; được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự; được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam; được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật; được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nếu bị giam, giữ trái pháp luật; được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam.
– Về nghĩa vụ, người bị tạm giữ, người bị tạm giam có nghĩa vụ chấp hành quyết định, yêu cầu, hướng dẫn của cơ quan, người có quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ, quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.
2.3. Về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
Quá trình xây dựng Luật, có ý kiến đề nghị giữ mô hình quản lý nhà tạm giữ, trại tạm giam như hiện nay nhưng có sự tách bạch tương đối độc lập về mặt tổ chức giữa cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam với cơ quan điều tra. Có ý kiến đề nghị giao bốn trại tạm giam thuộc Bộ Công an cho Tổng cục Cảnh sát và Tổng cục An ninh quản lý (hiện nay đang do Cục An ninh điều tra và Văn phòng Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an quản lý) để vừa phục vụ tốt cho hoạt động điều tra, vừa bảo đảm hoạt động độc lập của cơ sở giam giữ với các đơn vị điều tra của Bộ. Có ý kiến đề nghị cần giao các trại tạm giam thuộc Bộ Công an về cho Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Bộ Công an quản lý. Cũng có ý kiến cho rằng, cần tổ chức lại nhà tạm giữ, trại tạm giam theo hệ thống dọc do Bộ Công an quản lý từ Trung ương tới địa phương để bảo đảm tính độc lập và tính thống nhất về tổ chức, tránh việc cơ quan điều tra có thể lợi dụng việc quản lý để dẫn đến tình trạng bức cung, dùng nhục hình.
Qua khảo sát thực tiễn tại một số nhà tạm giữ, trại tạm giam cho thấy, trại tạm giam, nhà tạm giữ ở các tỉnh, huyện và ở Bộ Công an về cơ bản đã tách khỏi hệ thống Cơ quan điều tra cùng cấp. Kế thừa quy định hiện hành về hệ thống tổ chức của các trại tạm giam, nhà tạm giữ trong Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân và các buồng tạm giữ thuộc Đồn biện phòng, đồng thời, để phù hợp với quy định của Luật thi hành án hình sự, Quốc hội đã quy định về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này thành một chương riêng (Chương II), gồm 6 điều luật (từ Điều 10 đến Điều 15), cụ thể như sau:
a) Về hệ thống tổ chức cơ quan quản lý và thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 10, Điều 11)
– Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam trong Công an nhân dân bao gồm:
+ Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ Công an thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam trong phạm vi cả nước (gọi chung là cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Công an);
+ Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam trong địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh);
+ Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam trong địa bàn huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp huyện).
– Cơ sở quản lý tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân bao gồm:
+ Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam (gọi là cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng);
+ Cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam đối với trại tạm giam, nhà tạm giữ, khu vực thuộc phạm vi quản lý;
+ Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng cấp tỉnh thực hiện quản lý tạm giữ đối với buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng.
– Cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam bao gồm:
+ Trại tạm giam thuộc Bộ Công an; trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng;
+ Trại tạm giam công an cấp tỉnh; trại tạm giam thuộc quân khu và tương đương (gọi chung là trại tạm giam cấp quân khu);
+ Nhà tạm giữ công an cấp huyện; nhà tạm giữ cơ quan điều tra hình sự khu vực Quân đội nhân dân;
+ Buồng tạm giữ của đồn biên phòng ở hải đảo, biên giới xa trung tâm hành chính cấp huyện.
– Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định thành lập, giải thể, quy mô, thiết kế cơ sở giam giữ, ban hành nội quy cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam và của nhà tạm giữ, trại tạm giam (Điều 12, Điều 13)
– Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: Giúp Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tổ chức triển khai thi hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam, quyết định việc điều chuyển người bị tạm giữ, tạm giam giữa các cơ sở giam giữ; thanh tra, kiểm tra về tạm giữ, tạm giam theo thẩm quyền, thực hiện chế độ thống kê báo cáo về thi hành tạm giữ, tạm giam, tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao.
– Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh, Thủ trưởng cấp quân khu quản lý công tác thi hành tạm giữ, tạm giam trên địa bàn; tổ chức thi hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; chỉ đạo nghiệp vụ kiểm tra công tác thi hành tạm giữ, tạm giam đối với trại trạm giam, nhà tạm giữ; quyết định điều chuyển người bị tạm giữ, người bị tạm giam giữa các cơ sở giam giữ trong phạm vi tỉnh, quân khu; tranh tra, kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam theo thẩm quyền; tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về công tác tạm giữ, tạm giam theo hướng dẫn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
– Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Công an cấp huyện, cơ quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn: Giúp trưởng Công an cấp huyện, thủ trưởng Cơ quan điều tra hình sự khu vực quản lý công tác tạm giữ, tạm giam trên địa bàn; chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác thi hành tạm giữ, tạm giam đối với nhà tạm giữ; tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp trên; trực tiếp quản lý nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện, Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân dân.
– Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn: Chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác thi hành tạm giữ đối với buồng tạm giữ của đồn biên phòng; tổng kết công tác thi hành tạm giữ và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo.
– Nhà tạm giữ, trại tạm giam có các nhiệm vụ: Tiếp nhận, nhận hồ sơ, lập danh bản, chỉ bản của người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo lệnh, quyết định của người có thẩm quyền được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự hoặc người có quyết định điều chuyển theo quy định của Luật này; thực hiện các biện pháp quản lý, giam giữ người bị tạm giữ, người bị tạm giam; áp dụng các biện pháp bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; giải quyết kiến nghị theo thẩm quyền hoặc chuyển kháng cáo, khiếu nại, tố cáo, yêu cầu, kiến nghị, đề nghị của người bị tạm giữ, người bị tạm giam đến người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết; giao người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo lệnh trích xuất, quyết định điều chuyển của người có thẩm quyền; báo cáo cơ quan có thẩm quyền khi có căn cứ cho rằng lệnh, quyết định tạm giữ, tạm giam, trả tự do là trái pháp luật; phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án 01 ngày trước khi hết thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ, 05 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, 10 ngày trước khi hết thời hạn gia hạn tạm giam và yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ án giải quyết theo pháp luật; trường hợp hết thời hạn tạm giữ, thời hạn thạm giam, cơ quan đang thụ lý vụ án không giải quyết thì kiến nghị ngay Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam xử lý; trả tự do cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền; thực hiện thống kê, báo cáo về thi hành tạm giữ, tạm giam.
Đối với nhà tạm giữ Công an cấp huyện và trại tạm giam, ngoài nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Khoản 1 Điều 13 của Luật còn có nhiệm vụ, quyền hạn tiếp nhận, quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam có nhiệm vụ, quyền hạn: Tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của nhà tạm giữ, trại tạm giam quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 13 của Luật; quyết định phân loại, tổ chức giam giữ người bị tạm giữ, người bị tạm giam; quyết định kiểm tra, thu giữ, xử lý tài liệu, đồ vật thuộc danh mục cấm; ra lệnh trích xuất để khám, chữa bệnh và phục vị công tác giam giữ; ra lệnh trích xuất hoặc quyết định cho gặp thân nhân, người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp để thực hiện một số quyển, nghĩa vụ do luật định; thực hiện lệnh trích xuất hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền cho người nước ngoài bị giam giữ, tạm giam tiếp xúc lãnh sự hoặc các tổ chức nhân đạo; tổ chức bảo vệ an toàn cơ sở giam giữ; bảo đảm vệ sinh môi trường; phòng, chống thiên tai, dịch bệnh; thông báo cho cơ quan y tế nơi gần nhất khi có dịch bệnh xảy ra để phối hợp dập tắt dịch bệnh,
Phó Trưởng nhà tạm giữ, Phó giám thị trại tạm giam có trách nhiệm giúp Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam theo sự phân công hoặc ủy quyền của Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam và chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm vụ được giao.
– Trưởng nhà tạm giữ, Phó Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Phó giám thị trại tạm giam, người thi hành tạm giữ, tạm giam phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình trong việc chấp hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; nếu vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
c) Cơ cấu, tổ chức của nhà tạm giữ, trại tạm giam (Điều 14)
– Nhà tạm giữ được tổ chức như sau: Buồng tạm giữ, buồng tạm giam, buồng kỷ luật, buồng quản lý phạm nhân; các công trình phục vụ việc quản lý, giam giữ, hoạt động tố tụng hình sự. Tùy quy mô giam giữ, nhà tạm giữ có thể có các công trình phục vụ sinh hoạt, chăm sóc ý tế, giáo dục người bị tạm giữ, người bị tạm giam, thi hành án phạt tù; có các công trình làm việc, sinh hoạt của hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại nhà tạm giữ.
– Trại tạm giam được tổ chức như sau: Trại tạm giam có phân trại tạm giam, khu giam giữ, buồng tạm giam, buồng tạm giữ, buồng giam người chờ chấp hành án phạt tù, buồng giam người bị kết án tử hình, buồng kỷ luật, phân trại quản lý phạm nhân; các công trình phục vụ việc quản lý giam giữ, hoạt động tố tụng, thi hành án phạt tù, các công trình làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại trại tạm giam.
– Về tổ chức bộ máy của nhà tạm giữ trong Công an nhân dân gồm có Trưởng nhà tạm giữ, Phó Trưởng nhà tạm giữ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức làm nhiệm vụ quản giáo, trinh sát, bảo vệ, hỗ trợ tư pháp, tham mưu tổng hợp, hậu cần, kỹ thuật, giáo dục, y tế, hồ sơ. Về tổ chức bộ máy của nhà tạm giữ Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân dân gồm có Trưởng nhà tạm giữ, Phó trưởng nhà tạm giữ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng làm nhiệm vụ quản giáo, trinh sát, bảo vệ, hỗ trợ tư pháp, tham mưu tổng hợp, hậu cần, kỹ thuật, giáo dục, y tế, hồ sơ.
– Về tổ chức bộ máy của trại tạm giam trong Công an nhân dân gồm có Giám thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng, Trưởng cơ sở y tế; sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức và được tổ chức thành các đội, phân trại tạm giam, phân trại quan lý phạm nhân để làm nhiệm vụ quản giáo, trinh sát, bảo vệ, hỗ trợ tư pháp, thi hành án hình sự, tham mưu tổng hợp, hậu cần, kỹ thuật, giáo dục, y tế, hồ sơ. Về tổ chức bộ máy của trại tạm giam trong Quân đội nhân dân gồm có Giám thị, Phó giám thị, Chính trị viên, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng, Trưởng cơ sở y tế; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng có thể được tổ chức thành các đội để làm nhiệm vụ quản giáo, trinh sát, bảo vệ, hỗ trợ tư pháp, thi hành án hình sự, tham mưu tổng hợp, hậu cần, kỹ thuật, giáo dục, y tế, hồ sơ.
Luật cũng quy định Giám thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng phải là người có trình độ đại học cảnh sát, đại học an ninh hoặc cử nhân luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn khác do Chính phủ quy định.
Về thiết kế buồng tạm giữ, buồng tạm giam trong nhà tạm giữ, trại tạm giam, Luật quy định buồng tạm giữ, buồng tạm giam phải được thiết kế xây dựng kiên cố, có khóa cửa, có phương tiện kiểm soát an ninh, đủ ánh sáng, bảo đảm sức khỏe của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, vệ sinh môi trường, an toàn phòng cháy, chữa cháy, phù hợp với đặc điểm khí hậu của từng địa phương và yêu cầu công tác quản lý tạm giữ. Luật cũng quy định phòng làm việc của cơ quan, người tiến hành tố tụng, người bào chữa được thiết kế, xây dựng bảo đảm an toàn, đáp ứng yêu cầu điều tra, xử lý vụ án và bào chữa. Đây là quy định mới, tiến bộ của Luật so với quy định của các văn bản pháp luật trước đây nhằm phòng ngừa, hạn chế tình trạng bức cung, dùng nhục hình.
d) Về buồng tạm giữ thuộc Đồn biên phòng (Điều 15)
Luật quy định Đồn biên phòng đóng ở vùng sâu, vùng xa có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra được tổ chức buồng tạm giữ để quản lý, thực hiện chế độ tạm giữ đối với người bị tạm giữ theo quyết định của Đồn trưởng đồn biên phòng và của người có thẩm quyền khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Buồng tạm giữ thuộc Đồn biên phòng có Trưởng buồng tạm giữ và chịu sự quản lý trực tiếp của Đồn trưởng đồn biên phòng. Trưởng buồng tạm giữ có các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý người bị tạm giữ như Trưởng nhà tạm giữ theo quy định tại khoản 3 Điều 13 của Luật. Như vậy, không phải tất cả các đồn biên phòng đều có buồng tạm giữ, mà chỉ có đồn biên phòng đóng ở vùng sâu, vùng xa có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự mới được tổ chức buồng tạm giữ để quản lý, thực hiện chế độ tạm giữ đối với người bị tạm giữ theo quyết định của Đồn trưởng đồn biên phòng và của người có thẩm quyền khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
2.4. Về chế độ quản lý giam giữ; chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi; chế độ đối với người người bị kết án tử hình đang bị tạm giam
Trên cơ sở các nguyên tắc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam tại Điều 4 của Luật, tại các Chương III, IV, V và VI đã quy định cụ thể về chế độ quản lý giam giữ, chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi và chế độ đối với người bị kết án tử hình đang bị tạm giam. Các quy định này nhằm đảm bảo tốt hơn cho việc quản lý giam giữ, phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án; đồng thời bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, cụ thể là:
a) Về chế độ quản lý giam giữ
Tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 16): Luật quy định khi tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, cơ sở giam giữ có trách nhiệm:
+ Kiểm tra thông tin để xác định đúng người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo lệnh, quyết định của người có thẩm quyền;
+ Lập biên bản giao nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, tài liệu, hồ sơ kèm theo; tổ chức khám sức khỏe, kiểm tra thân thể của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và trẻ em dưới 36 tháng tuổi đi theo (nếu có). Việc kiểm tra thân thể người bị tạm giữ, người bị tạm giam là nam giới do cán bộ nam thực hiện, nữ giới do cán bộ nữ thực hiện và được tiến hành ở nơi kín đáo;
+ Chụp ảnh, lập danh bản, chỉ bản và vào sổ theo dõi người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
+ Phổ biến, hướng dẫn, giải thích quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam và nội quy của cơ sở giam giữ, kiểm tra và xử lý đồ vật mang theo trước khi đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam.
– Về hồ sơ quản lý tạm giữ, tạm giam (Điều 17): Hồ sơ quản lý tạm giữ, tạm giam bao gồm:
+ Các lệnh, quyết định, biên bản về việc bắt, tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm giữ, gia hạn tạm giam, truy nã, trả tự do, trích xuất, điều chuyển nơi giam giữ; các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân;
+ Biên bản giao nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, tài liệu, hồ sơ kèm theo; biên bản giao nhận tiền, tài sản khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam gửi lưu ký hoặc giao cho thân nhân, người đại diện hợp pháp của họ quản lý; quyết định, biên bản hủy đồ vật thuộc danh mục cấm;
+ Danh bản, chỉ bản, lý lịch và tài liệu về nhân thân; tài liệu liên quan đến việc chấp hành các quy định về giam giữ; biên bản, quyết định kỷ luật về việc vi phạm nội quy, pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; tài liệu về sức khỏe, khám, chữa bệnh; tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong thời gian bị giam giữ; tài liệu liên quan đến việc giải quyết chuyển kháng cáo, khiếu nại, tố cáo, yêu cầu, kiến nghị, đề nghị của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; tài liệu về thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự;
+ Quyết định của cơ quan có thẩm quyền đưa người bị kết án phạt tù đến nơi chấp hành án; quyết định của Hội đồng thi hành án tử hình đưa người bị kết án tử hình đi thi hành án tử hình;
+ Tài liệu khác có liên quan.
Đối với người bị tạm giam mà trước đó đã bị tạm giữ thì hồ sơ tạm giam còn bao gồm các tài liệu trong hồ sơ tạm giữ.
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chế độ quản lý, lưu trữ, khai thác, sử dụng hồ sơ quản lý tạm giữ, tạm giam.
Về phân loại quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 18): Quá trình xây dựng Luật, có ý kiến đề nghị cần duy trì chế độ giam riêng giữa nam và nữ, giữa người chưa thành niên với người đã thành niên, giữa những người trong cùng một vụ án, nhưng cũng cần quy định cơ chế linh hoạt cho phép Nhà tạm giữ, trại tạm giam phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xử lý trong một số trường hợp đặc biệt, quyết định việc giam giữ chung đối với người trong cùng một vụ án hoặc người đã thành niên với người chưa thành niên trong các tình huống cụ thể mà thực tiễn đã phát sinh.
Qua khảo sát thực tiễn về công tác tạm giữ, tạm giam tại một số địa phương cho thấy, hầu hết nhà tạm giữ của Công an cấp huyện và buồng tạm giữ trong Trại tạm giam đều có số lượng phòng hạn chế, trong khi đó một số vụ án có số người bị tạm giữ, tạm giam đông thì việc quy định không tạm giữ, tạm giam chung những người trong cùng một vụ án trong mọi trường hợp là rất khó khả thi. Bên cạnh đó, người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người chưa thành niên khi mới bị tạm giữ, tạm giam thường có biểu hiện tâm lý không ổn định thì Nhà tạm giữ, Trại tạm giam vẫn cần bố trí một đến hai người đã thành niên chấp hành tốt kỷ luật, nội quy tạm giữ, tạm giam cùng sinh hoạt với họ để kiểm soát hành vi, khuyên răn, tránh việc họ tự sát hoặc tự gây thương tích cho mình. Do đó, Luật đã quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bố trí theo khu và phân loại như sau:
+ Người bị tạm giữ;
+ Người bị tạm giam;
+ Người dưới 18 tuổi;
+ Phụ nữ;
+ Người nước ngoài;
+ Người mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A;
+ Người thực hiện hành vi phạm tội có tính chất côn đồ; giết người; cướp tài sản thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm;
+ Người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia;
+ Người bị kết án tử hình;
+ Người đang chờ chấp hành án phạt tù;
+ Người thường xuyên vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ;
+ Người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh.
Không giam giữ chung buồng những người trong cùng một vụ án đang trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, do điều kiện thực tế mà nhà tạm giữ, trại tạm giam không thể đáp ứng được yêu cầu giam giữ riêng hoặc để bảo đảm yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm an toàn cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thì Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ đồn biên phòng phối hợp với cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định bằng văn bản những người được giam giữ chung.
Bên cạnh việc phân loại để bố trí giam giữ theo khu như trên, Luật còn quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam sau đây có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng:
+ Người đồng tính, người chuyển giới;
+ Người quy định tại các điểm e, i và m khoản 1 Điều 18 (Người mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A; Người bị kết án tử hình; Người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh)
+ Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi ở cùng.
Trong quá trình xây dựng Luật có ý kiến đề nghị giam giữ riêng những người cao tuổi từ 70 tuổi trở lên và người khuyết tật. Tuy nhiên Quốc hội cho rằng, người từ 70 tuổi trở lên là người cao tuổi, nhưng theo quy định của pháp luật thì họ vẫn có đầy đủ khả năng nhận thức, năng lực hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, do đó, việc giam giữ riêng đối với họ là không cần thiết, nhất là trong điều kiện giam giữ của Nhà nước ta còn khó khăn. Đối với người khuyết tật, nếu giam giữ riêng có thể dẫn đến họ gặp khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày, nhất là đối với những việc mà họ không thể tự mình làm được, mà cần phải có sự hỗ trợ của người khác hoặc của cơ sở giam giữ. Do đó, Luật không quy định phân loại để giam, giữ riêng đối với những người này.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “có thể” quy định tại khoản 4 Điều 18 (về việc bố trí giam giữ ở buồng riêng) để bảo đảm những người này phải được giam giữ ở buồng riêng. Tuy nhiên, Quốc hội cho rằng theo quy định tại Điều 18 thì các đối tượng quy định tại khoản 4 Điều 18 đã được giam giữ tại các khu riêng theo sự phân loại. Khoản 4 quy định về giam giữ tại buồng riêng, theo đó không phải tất cả đối tượng quy định tại khoản này bên cạnh việc giam giữ tại khu riêng đều phải giam ở buồng riêng trong mọi trường hợp. Mặt khác, nếu quy định cứng tất cả những người quy định tại khoản 4 Điều 18 đều phải được giam giữ ở buồng riêng thì thực tiễn cơ sở vật chất, kỹ thuật của các trại tạm giam, nhà tạm giữ trên toàn quốc cũng không thể đáp ứng được quy định này. Căn cứ vào tình hình, mức độ cụ thể của đối tượng và điều kiện thực tế mà người đứng đầu cơ sở giam giữ cân nhắc để quyết định giam giữ ở buồng riêng hay không để bảo đảm việc áp dụng linh hoạt trong các trường hợp cụ thể.
Về chế độ quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 19): Theo quy định của Luật, cơ sở giam giữ phải được canh gác, bảo vệ, quản lý, kiểm tra, giám sát 24/24 giờ trong ngày. Người bị tạm giữ phải ở trong buồng tạm giữ; người bị tạm giam phải ở trong buồng tạm giam. Khi có lệnh của thủ trưởng cơ sở giam giữ thì mới được ra khỏi buồng tạm giữ, buồng tạm giam để thực hiện lệnh trích xuất và các hoạt động khác theo quy định tại khoản 5 Điều 20 của Luật này và nội quy của cơ sở giam giữ. Điều này cũng quy định cụ thể về các quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế khi bị tạm giữ, bị tạm giam, theo đó, người bị tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế đi lại, giao dịch, tiếp xúc, thông tin, liên lạc, tuyên truyền tín ngưỡng, tôn giáo. Trường hợp cần thiết thực hiện giao dịch dân sự thì phải thông qua người đại diện hợp pháp và được sự đồng ý của cơ quan đang thụ lý vụ án.
Để đáp ứng yêu cầu thực tế để đảm bảo hiệu quả của công tác điều tra, xử lý vụ án và phù hợp với điều kiện thực tiễn về cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở giam giữ, Điều 19 của Luật quy định việc điều chuyển người bị tạm giữ, người bị tạm giam giữa các cơ sở giam giữ do Thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam quyết định sau khi thống nhất với Thủ trưởng cơ quan đang thụ lý vụ án và thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Thẩm quyền điều chuyển người bị tạm giữ, người bị tạm giam được quy định như sau:
– Việc điều chuyển giữa các cơ sở giam giữ thuộc cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quân khu và tương đương do Thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu quyết định;
– Việc điều chuyển giữa các cơ sở giam giữ không thuộc cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quân khu và tương đương do Thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu nơi chuyển đi quyết định sau khi thống nhất với Thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu nơi nhận;
– Việc điều chuyển giữa cơ sở giam giữ Công an cấp tỉnh, cấp quân khu với cơ sở giam giữ thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng do Thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quyết định;
– Việc điều chuyển giữa cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân với cơ sở giam giữ trong Quân đội nhân dân do Thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam nơi chuyển đi quyết định sau khi thống nhất với Thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam nơi nhận.
Về việc trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 20): Việc trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ được thực hiện khi có lệnh trích xuất của người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự và Luật này, trong trường hợp sau đây:
– Để phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
– Đưa đi khám bệnh, chữa bệnh, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần;
– Gặp thân nhân, người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp để thực hiện một số quyền, nghĩa vụ do luật định;
– Người nước ngoài bị tạm giữ, tạm giam tiếp xúc lãnh sự hoặc tiếp xúc với các tổ chức nhân đạo theo quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo sự thỏa thuận giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước có người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc vì lý do đối ngoại đối với từng trường hợp cụ thể.
Trường hợp Giám thị trại tạm giam, Trưởng nhà tạm giữ, Trưởng buồng tạm giữ của đồn biên phòng trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam đi khám bệnh, chữa bệnh thì phải thông báo ngay cho cơ quan đang thụ lý vụ án và Viện kiểm sát có thẩm quyền. Lệnh trích xuất phải có các nội dung chủ yếu sau:
– Cơ quan, họ tên, chức vụ, cấp bậc người ra lệnh;
– Họ tên, năm sinh, quốc tịch, nơi cư trú, hành vi vi phạm pháp luật, ngày bị tạm giữ, ngày bị tạm giam của người được trích xuất;
– Mục đích và thời hạn trích xuất;
– Họ tên, chức vụ, cấp bậc, cơ quan của người làm nhiệm vụ áp giải người được trích xuất hoặc cơ quan làm nhiệm vụ áp giải;
– Họ tên, chức vụ, cấp bậc (nếu có) của người nhận trích xuất của cơ quan có thẩm quyền ra lệnh trích xuất;
– Ngày, tháng, năm ra lệnh; chữ ký của người ra lệnh và đóng dấu.
Cơ sở giam giữ có trách nhiệm kiểm tra, bàn giao người bị tạm giữ, người bị tạm giam cho cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải. Cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải có trách nhiệm bàn giao người được trích xuất cho người có thẩm quyền ra lệnh trích xuất. Việc giao nhận phải được lập biên bản, có ghi rõ tình trạng sức khỏe của người đó và ghi sổ theo dõi.
Người có thẩm quyền ra lệnh trích xuất có trách nhiệm tiếp nhận người được trích xuất. Cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải phối hợp với cơ sở giam giữ và người có thẩm quyền ra lệnh trích xuất quản lý và bảo đảm thực hiện chế độ ăn, ở, sinh hoạt đối với người được trích xuất theo quy định của Luật này. Việc áp giải, quản lý và kinh phí bảo đảm thực hiện chế độ ăn, ở, sinh hoạt đối với người được trích xuất do Chính phủ quy định.
Khi chưa hết thời hạn trích xuất nhưng đã hoàn thành mục đích trích xuất hoặc hết thời hạn trích xuất, người có yêu cầu trích xuất bàn giao người được trích xuất cho cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải để giao người được trích xuất cho cơ sở giam giữ, trừ trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam được trả tự do theo bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền. Nếu có nhu cầu tiếp tục trích xuất thì phải có lệnh gia hạn trích xuất. Thời hạn trích xuất và gia hạn trích xuất không được dài hơn thời hạn tạm giữ, tạm giam còn lại.
Trường hợp thực hiện hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này bên trong khu vực cơ sở giam giữ thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam ra khỏi buồng tạm giữ, buồng tạm giam mà không cần lệnh trích xuất.
Về chuyển giao người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 21): Luật quy định cơ sở giam giữ có trách nhiệm chuyển giao người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong các trường hợp sau đây:
– Khi có quyết định của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam chuyển người bị tạm giữ, người bị tạm giam đến cơ sở giam giữ khác.
– Khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền đưa người bị kết án phạt tù đến nơi chấp hành án.
– Khi có quyết định của Hội đồng thi hành án tử hình đưa người bị kết án tử hình đi thi hành án tử hình.
– Về việc gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 22): Việc người bị tạm giữ, người bị tạm giam được gặp thân nhân trong quá trình bị tam giữ, tạm giam có ý nghĩa quan trọng. Theo quy định hiện hành, người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ được gặp thân nhân nếu được cơ quan thụ lý vụ án đồng ý. Quy định này dẫn đến trong nhiều trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam không được gặp thân nhân trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam. Tại Điều 22 đã thay thế quy định này bằng quy định người bị tạm giữ được gặp thân nhân một lần trong thời gian tạm giữ, một lần trong mỗi lần gia hạn tạm giữ. Người bị tạm giam được gặp thân nhân một lần trong một tháng; trường hợp tăng thêm số lần gặp hoặc người gặp không phải là thân nhân thì phải được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý. Thời gian mỗi lần gặp không quá một giờ. Người đến thăm gặp phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ xác nhận về quan hệ với người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong trường hợp là thân nhân của họ. Việc thăm gặp phải chịu sự giám sát, theo dõi chặt chẽ của cơ sở giam giữ; không làm ảnh hưởng đến các hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền; tuân thủ quy định về thăm gặp; trường hợp cơ quan thụ lý vụ án có yêu cầu thì phối hợp với cơ sở giam giữ để giám sát, theo dõi việc thăm gặp. Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định cụ thể thời điểm thăm gặp; thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án về việc thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Quá trình xây dựng Luật có ý kiến đề nghị giữ quy định hiện hành về việc gặp thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ cho thấy quy định như trên là không phù hợp với tình hình thực tiễn về cải cách thủ tục hành chính và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người và trong nhiều trại tạm giam, phòng thăm gặp đã được thiết kế vách cách ly; thân nhân, người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ có thể trao đổi qua điện thoại, được giám sát chặt chẽ nên khó xảy ra việc thông cung. Vì vậy, việc bỏ quy định việc gặp thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải được sự cho phép của cơ quan đang thụ lý vụ án và quy định cụ thể ngay trong luật số lần, thời gian gặp thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phù hợp.
Tại khoản 3 Điều 22 của Luật quy định người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm giam đang khám bệnh, chữa bệnh; phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa.
Thủ trưởng cơ sở giam giữ không đồng ý cho thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong các trường hợp sau đây và phải nêu rõ lý do:
+ Thân nhân không xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ xác nhận về quan hệ với người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc cơ quan đang thụ lý vụ án có văn bản đề nghị không cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp thân nhân do thấy có ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giải quyết vụ án; người bào chữa không xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam;
+ Trong trường hợp khẩn cấp để bảo vệ an toàn cơ sở giam giữ hoặc để tổ chức truy bắt người bị tạm giữ, người bị tạm giam bỏ trốn;
+ Khi có dịch bệnh xảy ra tại khu vực có cơ sở giam giữ;
+ Khi cấp cứu người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc khi người bị tạm giữ, người bị tạm giam đang mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A;
+ Khi đang lấy lời khai, hỏi cung hoặc người bị tạm giữ, người bị tạm giam đang tham gia các hoạt động tố tụng khác;
+ Người bị tạm giữ, người bị tạm giam không đồng ý thăm gặp; trường hợp này, người thăm gặp được trực tiếp gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc không đồng ý thăm gặp;
+ Người đến thăm gặp cố ý vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ từ hai lần trở lên;
+ Người bị tạm giữ, người bị tạm giam đang bị kỷ luật theo quy định tại khoản 3 Điều 23 của Luật này.
Việc thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài được thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này. Việc tiếp xúc lãnh sự, tổ chức nhân đạo được thực hiện theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo thỏa thuận quốc tế hoặc thỏa thuận về từng trường hợp cụ thể giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước có người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc với tổ chức nhân đạo. Việc tiếp xúc, thăm gặp có thể mời đại diện của cơ quan ngoại giao Việt Nam hoặc đại diện Hội Chữ thập đỏ Việt Nam cùng tham dự. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết về việc thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài.
– Về kỷ luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ (Điều 23): Theo điểm b khoản 2 Điều 9 của Luật, người bị tạm giữ, người bị tạm giam có nghĩa vụ phải chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ, các quy định khác của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và pháp luật có liên quan. Nếu người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị kỷ luật bằng một trong các hình thức sau đây:
+ Cảnh cáo;
+ Cách ly ở buồng kỷ luật từ 01 ngày đến 02 ngày và có thể bị gia hạn đến 02 ngày đối với người bị tạm giữ; cách ly ở buồng kỷ luật từ 03 ngày đến 07 ngày và có thể bị gia hạn đến 10 ngày đối với người bị tạm giam. Thời hạn cách ly không quá thời hạn tạm giữ, tạm giam còn lại.
Việc kỷ luật bằng hình thức cách ly được thực hiện nếu người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ hai lần trở lên hoặc có các hành vi quy định tại khoản 5 và khoản 7 Điều 8 của Luật này.
Người bị cách ly ở buồng kỷ luật nếu có hành vi chống phá quyết liệt cơ sở giam giữ, tự sát, tự gây thương tích cho bản thân, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác thì bị cùm một chân. Thời gian bị cùm chân do Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định. Không áp dụng cùm chân đối với người bị kỷ luật là người dưới 18 tuổi, phụ nữ, người khuyết tật nặng trở lên, người đủ 70 tuổi trở lên. Trong thời gian bị cách ly ở buồng kỷ luật, người bị tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế việc thăm gặp, gửi, nhận thư, nhận quà.
Việc kỷ luật và việc hạn chế thăm gặp, gửi, nhận thư, nhận quà đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam do Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định bằng văn bản. Biên bản về việc vi phạm và quyết định kỷ luật được đưa vào hồ sơ quản lý giam giữ. Nếu người bị kỷ luật có tiến bộ thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định bằng văn bản việc giảm thời hạn kỷ luật, bãi bỏ việc hạn chế thăm gặp, gửi, nhận thư, nhận quà đối với người đó.
Quá trình xây dựng Luật có ý kiến đề nghị cân nhắc lại biện pháp kỷ luật cùm một chân vì biện pháp này quá khắc nghiệt đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Tuy nhiên, Quốc hội cho rằng trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm kỷ luật, sau khi đã được cách ly mà vẫn có hành vi chống phá quyết liệt cơ sở giam giữ, có biểu hiện tự sát, gây thương tích cho bản thân hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác thì việc cùm một chân để ngăn ngừa là cần thiết, vừa bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe của họ hoặc người khác, vừa đảm bảo an toàn kỷ cương, sự tuân thủ pháp luật của cơ sở giam giữ. Quy định này là phù hợp và không trái với Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác và các công ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên.
– Về việc quản lý đồ vật, tư trang, tiền, tài sản của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 24): Luật quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ được đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam đồ dùng cần thiết cho cá nhân. Đồ vật, tư trang, tiền và tài sản khác của họ mang theo phải gửi lưu ký tại nơi quy định của cơ sở giam giữ hoặc ủy quyền cho thân nhân, người đại diện hợp pháp của họ quản lý. Những đồ vật không thể bảo quản được trong thời hạn tạm giữ, tạm giam và những đồ vật thuộc danh mục cấm mang vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam nếu phải hủy bỏ thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ phải ra quyết định bằng văn bản hoặc xử lý theo quy định của pháp luật. Khi hủy bỏ phải có sự chứng kiến của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và phải lập biên bản về việc hủy bỏ. Nếu họ được trả tự do, chuyển nơi giam giữ khác thì đồ vật, tư trang, tiền, tài sản khác đã gửi lưu ký được trả lại; trường hợp cơ sở giam giữ làm hư hỏng hoặc mất thì phải bồi thường. Khoản 2 Điều 24 của Luật giao Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định danh mục đồ vật cấm đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam. Căn cứ vào danh mục đồ vật cấm đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam, Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định không được đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam các đồ vật cụ thể có khả năng dùng để tự sát, trốn khỏi nơi giam giữ, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe, tính mạng của người đó hoặc người khác.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được sử dụng tiền gửi lưu ký để mua đồ dùng thiết yếu cho sinh hoạt của họ bằng hình thức ký sổ.
– Về việc giải quyết người bị tạm giữ, người bị tạm giam bỏ trốn (Điều 25): Luật quy định khi người bị tạm giữ, người bị tạm giam bỏ trốn, Thủ trưởng cơ sở giam giữ phải tổ chức truy bắt ngay, lập biên bản; thông báo ngay cho cơ quan đang thụ lý vụ án và Viện kiểm sát có thẩm quyền phối hợp xử lý. Mọi trường hợp bỏ trốn đều phải được áp dụng các biện pháp truy bắt, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam đã bỏ trốn ra đầu thú thì cơ quan tiếp nhận lập biên bản, báo ngay cho cơ quan đang thụ lý vụ án và cơ sở giam giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.
– Về việc giải quyết trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết (Điều 26): Luật quy định trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ phải tổ chức bảo vệ hiện trường, thông báo ngay cho Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát có thẩm quyền để tiến hành xác định nguyên nhân chết; đồng thời, thông báo cho thân nhân, người đại diện hợp pháp của người chết. Đại diện cơ sở giam giữ phải chứng kiến việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. Trường hợp người chết là người nước ngoài thì việc thông báo cho cơ quan lãnh sự và thân nhân, người đại diện hợp pháp của họ do cơ quan đang thụ lý vụ án thực hiện. Cơ sở giam giữ làm thủ tục khai tử theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Khi Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đồng ý cho làm các thủ tục an táng người chết thì cơ sở giam giữ có trách nhiệm thông báo cho thân nhân của người chết. Trường hợp thân nhân người chết có văn bản yêu cầu thì bàn giao thi hài đó cho họ, trừ trường hợp có căn cứ cho rằng việc đó ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và vệ sinh môi trường. Sau thời hạn 24 giờ kể từ khi thông báo mà họ không nhận thì cơ sở giam giữ có trách nhiệm tổ chức an táng. Trường hợp thân nhân của người chết có đơn đề nghị được nhận tro cốt hoặc hài cốt sau khi an táng thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ trao đổi với chính quyền địa phương giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc an táng phải tuân thủ quy định của Bộ Y tế và của chính quyền địa phương.
Người nước ngoài bị tạm giữ, tạm giam chết thì giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo thỏa thuận quốc tế hoặc sự thỏa thuận trực tiếp về từng trường hợp cụ thể giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước có người bị tạm giữ, tạm giam chết. Trường hợp chưa có điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế tương ứng hoặc giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước có người bị tạm giữ, tạm giam chết không thoả thuận thống nhất được về giải quyết trường hợp cụ thể hoặc không xác định được quốc tịch của người chết thì giải quyết như đối với người Việt Nam bị tạm giữ, tạm giam chết.
Kinh phí liên quan tới việc an táng do ngân sách nhà nước bảo đảm. Chính phủ quy định chi tiết khoản này.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết mà trước đó đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội hoặc đang được hưởng lương hưu thì chế độ tử tuất giải quyết theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.
b) Về chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
Chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam được quy định tại Chương IV gồm 05 điều (từ Điều 27 đến Điều 31), quy định về chế độ ăn, ở của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ mặc và tư trang của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ gửi, nhận thư, sách, báo và tài liệu của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ sinh hoạt tinh thần đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Đây là những quy định quan trọng về các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam nhằm bảo đảm các quyền cơ bản mà người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng theo quy định của Hiến pháp. Tuy nhiên, về kỹ thuật lập pháp đây là vấn đề khó bởi có nhiều vấn đề mang tính chi tiết, cụ thể và dễ thay đổi khi tình hình kinh tế của đất nước thay đổi. Do vậy, kế thừa các quy định về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam hiện hành còn phù hợp, những vấn đề có thể quy định cụ thể được (như chế độ ăn), Luật quy định cụ thể và có cơ chế mở giao cho Thủ trưởng cơ sở giam giữ căn cứ vào thực tiễn trong từng thời kỳ điều chỉnh, hoán đổi các loại thức ăn cho phù hợp, bảo đảm dinh dưỡng, đủ calo cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo đúng định mức được quy định trong Luật; còn những vấn đề khác Luật quy định mang tính nguyên tắc về chế độ còn chi tiết do Chính phủ quy định.
– Về chế độ ăn, ở của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 27): Luật quy định trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau, thịt, cá, đường, muối, nước chấm, bột ngọt, chất đốt, điện, nước sinh hoạt. Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định việc hoán đổi định lượng ăn cho phù hợp với thực tế để bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam ăn hết tiêu chuẩn. Ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được ăn thêm nhưng mức ăn không quá năm lần tiêu chuẩn ăn ngày thường. Căn cứ yêu cầu bảo đảm sức khỏe của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, Chính phủ quy định cụ thể định mức ăn phù hợp với điều kiện kinh tế, ngân sách và biến động giá cả thị trường.
Người bị tạm giữ được nhận quà của thân nhân gửi trong thời gian bị tạm giữ không quá một lần; nếu gia hạn tạm giữ thì mỗi lần gia hạn tạm giữ được nhận quà một lần. Người bị tạm giam được nhận quà của thân nhân gửi đến không quá ba lần trong 01 tháng. Định lượng quà là đồ ăn, uống cho mỗi lần gửi không được vượt quá ba lần tiêu chuẩn ăn ngày thường. Thủ trưởng cơ sở giam giữ tổ chức tiếp nhận, kiểm tra loại bỏ các vật bị cấm và giao đầy đủ cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam; kiểm tra, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi chiếm đoạt quà, đồ dùng sinh hoạt của người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể loại quà mà thân nhân người bị tạm giữ, người bị tạm giam được phép gửi.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bảo đảm an toàn thực phẩm trong ăn, uống. Cơ sở giam giữ tổ chức bếp ăn và được cấp các dụng cụ cần thiết cho việc bảo quản lương thực, thực phẩm, nấu ăn, nước uống và chia đồ ăn theo khẩu phần tiêu chuẩn. Chỗ nằm tối thiểu của mỗi người bị tạm giữ, người bị tạm giam là 02 mét vuông (m2), được bố trí sàn nằm và có chiếu.
– Về chế độ mặc và tư trang của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 28)
Trong quá trình xây dựng luật có ý kiến cân nhắc về việc có bắt buộc người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải sử dụng quần áo đồng phục do cơ sở giam giữ cấp hay không? Qua nghiên cứu, Quốc hội cho rằng người bị tạm giữ, người bị tạm giam chưa phải là người có tội (chưa có bản án hoặc có quyết định kết tội có hiệu lực của Tòa án), họ khác với những người đang chấp hành án phạt tù (là người đã có tội), do vậy, họ không nhất thiết phải mặc đồng phục như người đang chấp hành án phạt tù. Vì vậy, Luật đã quy định theo hướng linh hoạt: trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được sử dụng quần áo, chăn, chiếu, màn và các đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của cá nhân; nếu thiếu thì cơ sở giam giữ cho mượn. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được cấp xà phòng, kem đánh răng; nếu là phụ nữ thì được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ. Cán bộ trực tiếp quản lý giam giữ có trách nhiệm hướng dẫn, yêu cầu người bị tạm giữ, người bị tạm giam giữ gìn và bảo đảm vệ sinh; thu hồi đồ dùng đã cho mượn khi người bị tạm giữ, người bị tạm giam ra khỏi cơ sở giam giữ. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết về chế độ mặc và tư trang của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
– Về chế độ gửi, nhận thư, sách, báo và tài liệu của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 29): Luật quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ được gửi hoặc nhận thư, sách, báo và tài liệu khi được cơ quan đang thụ lý vụ án cho phép. Thư, sách, báo và tài liệu phải để mở và chịu sự kiểm tra, kiểm duyệt của cơ sở giam giữ.
– Về chế độ chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 30): Theo khoản 1 Điều 9 của Luật, người bị tạm giữ, người bị tạm giam có quyền được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, được đảm bảo chế độ chăm sóc y tế. Trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam, Nhà nước có trách nhiệm chăm sóc y tế cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam khi họ bị ốm đau. Trên cơ sở đó, Điều 30 của Luật quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng chế độ khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh. Trường hợp bị ốm đau, bệnh tật, thương tích thì được khám và điều trị tại cơ sở y tế của cơ sở giam giữ; nếu bị bệnh nặng hoặc thương tích vượt quá khả năng của cơ sở giam giữ thì được chuyển đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp huyện, cấp tỉnh, bệnh viện quân đội hoặc bệnh viện Trung ương khám, điều trị. Cơ sở giam giữ phải thông báo cho thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người đó biết để phối hợp chăm sóc, điều trị. Chế độ ăn, sử dụng thuốc, bồi dưỡng do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chỉ định. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được nhận thuốc chữa bệnh từ thân nhân và phải có đơn thuốc của thầy thuốc, chịu sự kiểm tra của cơ sở giam giữ.
Đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì cơ sở giam giữ yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ án trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Khi có quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam đến cơ sở chữa bệnh nêu trong quyết định. Kinh phí khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam do ngân sách nhà nước bảo đảm theo quy định của Chính phủ. Trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam có chế độ bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ khám chữa bệnh theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.
– Về chế độ sinh hoạt tinh thần đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 31): Để bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam có tâm lý ổn định, bình thường trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam, đồng thời, có thể tiếp cận nguồn thông tin cần thiết ở ngoài xã hội, Luật đã quy định về chế độ sinh hoạt tinh thần đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Theo đó, cơ sở giam giữ được trang bị hệ thống truyền thanh. Trung bình hai mươi người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc cơ sở giam giữ có dưới hai mươi người bị tạm giữ, người bị tạm giam thì được cấp một tờ báo địa phương hoặc báo Trung ương. Thủ trưởng cơ sở giam giữ tổ chức cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam nghe đài phát thanh, đọc báo. Nếu có điều kiện thì tổ chức cho họ xem chương trình truyền hình địa phương và Trung ương.
c) Về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi
Chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được quy định tại Chương V, gồm 04 điều (từ Điều 32 đến Điều 35). Đây là những quy định mang tính nhân đạo sâu sắc, nhằm bảo đảm sức khỏe của người mẹ và bảo đảm sự phát triển bình thường của thai nhi, trẻ em và người dưới 18 tuổi.
– Về chế độ ăn, ở và quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi (Điều 33): Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như người bị tạm giữ, người bị tạm giam đã thành niên và được tăng thêm về thịt, cá nhưng không quá 20% so với định lượng. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được bố trí giam giữ riêng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 18 của Luật này.
– Về chế độ gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi (Điều 34): Luật quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự quy định tại Điều 22 của Luật này với số lần thăm gặp được tăng gấp đôi so với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người đủ 18 tuổi trở lên.
– Về chế độ ăn, ở và quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi (Điều 35): Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai được bố trí nơi ở hợp lý, được khám thai, được chăm sóc y tế, được hưởng chế độ ăn uống bảo đảm sức khỏe; nếu sinh con thì được bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn theo chỉ dẫn của y sĩ hoặc bác sĩ, được cấp thực phẩm, đồ dùng, thuốc men cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh, được bảo đảm thời gian cho con bú trong thời gian nuôi con bằng sữa mẹ. Cơ sở giam giữ có trách nhiệm làm thủ tục đề nghị đăng ký khai sinh. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cơ sở giam giữ đóng trụ sở có trách nhiệm đăng ký và cấp giấy khai sinh. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi ở cùng thì được bố trí chỗ nằm tối thiểu là 03 mét vuông.
Cơ sở giam giữ phải tổ chức việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có con từ đủ 36 tháng tuổi trở lên thì phải gửi con về cho thân nhân nuôi dưỡng; trường hợp không có thân nhân nhận nuôi dưỡng thì Thủ trưởng cơ sở giam giữ đề nghị Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi có cơ sở giam giữ chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận, nuôi dưỡng. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận, nuôi dưỡng. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam sau khi được trả tự do được nhận lại con đang được cơ sở bảo trợ xã hội nuôi dưỡng. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết về chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi tại cơ sở giam giữ.
d) Về chế độ đối với người bị kết án tử hình đang bị tạm giam
Chế độ đối với người bị kết án tử hình đang bị tạm giam được quy định tại Chương VI, gồm 02 điều (Điều 36, Điều 37)
– Về chế độ ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế, nhận quà, gửi, nhận thư, sách, báo, tài liệu như người bị tạm giam khác (khoản 1 Điều 37): Người bị kết án tử hình đang bị tạm giam được hưởng chế độ ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế, nhận quà, gửi, nhận thư, sách, báo, tài liệu như người bị tạm giam khác.
– Về chế độ quản lý giam giữ đối với người bị kết án tử hình, các khoản 2, 3, 4, 5 và khoản 6 Điều 37 quy định: (1) Việc thăm gặp đối với người bị kết án tử hình mà bản án đã có hiệu lực pháp luật, đang chờ thi hành án do Giám thị trại tạm giam quyết định; đối với người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Luật này. Việc tổ chức thăm gặp phải bảo đảm tuyệt đối an toàn. (2) Cơ sở giam giữ phải bảo đảm cho người bị kết án tử hình thực hiện quyền kháng cáo, quyền đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, quyền xin ân giảm án tử hình theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các quyền khác của người bị tạm giam theo quy định của Luật này. (3) Trường hợp người bị kết án tử hình có quyết định ân giảm xuống tù chung thân hoặc có bản án giảm xuống tù chung thân, tù có thời hạn thì thủ trưởng cơ sở giam giữ chuyển người đó đến nơi giam giữ người chờ chấp hành án phạt tù. Trường hợp hủy án để điều tra lại thì thủ trưởng cơ sở giam giữ chuyển người bị kết án tử hình đến buồng tạm giam để phục vụ hoạt động điều tra. (4) Cơ sở giam giữ trả lại tiền, tài sản gửi lưu ký, đồ dùng cá nhân của người đã bị thi hành án tử hình cho thân nhân hoặc người được uỷ thác của người đó (5) Trại tạm giam phải tổ chức buồng riêng hoặc khu riêng để giam giữ người bị kết án tử hình. Trong quá trình quản lý tạm giam người bị kết án tử hình, nếu xét thấy họ có biểu hiện bỏ trốn, tự sát hoặc có hành vi nguy hiểm khác thì thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định việc cùm một chân và tổ chức theo dõi, quản lý, ngăn ngừa. Luật cũng giao Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết về việc thăm gặp đối với người bị kết án tử hình và tổ chức buồng riêng hoặc khu riêng để giam giữ người bị kết án tử hình.
2.5. Về bảo đảm điều kiện quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; khiếu nại tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; điều khoản thi hành
a) Về bảo đảm điều kiện quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, gồm 4 điều (từ Điều 38 đến Điều 41), quy định về bảo đảm biên chế nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ; cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam; chế độ chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
– Về biên chế, nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, Điều 38 của Luật quy định: (1) Nhà nước bảo đảm biên chế, nhân lực cho cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Người làm công tác quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam được đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao. (2) Nhà nước bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, bao gồm đất đai, trụ sở, công trình giam giữ và phụ trợ, trang bị, thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, kỹ thuật nghiệp vụ và các điều kiện vật chất, kỹ thuật khác. Ưu tiên bảo đảm cơ sở vật chất cho cơ sở giam giữ ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn trọng yếu về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. (3) Nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam. Việc lập dự toán, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
– Về sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ, Điều 39 của Luật quy định: Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, binh sĩ Công an nhân dân, Quân đội nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ thi hành tạm giữ, tạm giam được sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ.
– Về cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam, Điều 40 của Luật quy định: (1) Cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam do Bộ Công an thống nhất quản lý và là một bộ phận của cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin phòng, chống tội phạm nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước về thi hành tạm giữ, tạm giam. (2) Việc xây dựng, thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam do Chính phủ quy định.
– Về chế độ chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, Điều 41 của Luật quy định: (1) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, binh sĩ Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và công nhân, viên chức công an, quốc phòng làm nhiệm vụ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam được hưởng chế độ, chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. (2) Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam có thành tích thì được khen thưởng; nếu bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản thì được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
b) Về kiếm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, gồm 2 điều (Điều 42 và Điều 43), quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
– Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, Điều 42 của Luật quy định: (1) Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. (2) Khi kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Kiểm sát tại trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ; hỏi người bị tạm giữ, người bị tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam; b) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam; c) Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ Bộ đội Biên phòng tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình thi hành tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam; d) Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật; đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam; đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật; e) Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật; g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật này, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự.
– Về trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, Điều 43 của Luật quy định: Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ Bộ đội biên phòng có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định sau đây của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam: (1) Yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam phải được thực hiện ngay; yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, yêu cầu trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện trong thời hạn 15 ngày; yêu cầu tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. (2) Quyết định quy định tại điểm d khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được thi hành ngay; nếu không nhất trí với quyết định đó thì vẫn phải thi hành, nhưng có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phải giải quyết. (3) Kháng nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị thì có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền; Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phải giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại; quyết định của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật. (4) Kiến nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được xem xét, giải quyết, trả lời cho Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị.
c) Về khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, Luật quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình; người bị tạm giữ, người bị tạm giam và mọi người có quyền tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ người có thẩm quyền nào trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Luật giao Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam của cơ quan, người có thẩm quyền thuộc trách nhiệm kiểm sát của mình, cụ thể như sau:
+ Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (từ Điều 44 đến Điều 55):
* Khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 44): (1) Người bị tạm giữ, người bị tạm giam và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. (2) Thời hiệu khiếu nại lần đầu là 30 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam mà người khiếu nại cho rằng có vi phạm pháp luật. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, đi công tác, học tập ở xa hoặc vì trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.Thời hiệu lần khiếu nại tiếp theo là 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền.
* Những trường hợp khiếu nại về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam không được thụ lý giải quyết (Điều 45):
(1) Quyết định, hành vi bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
(2) Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp người khiếu nại là người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
(3) Người đại diện không có giấy tờ chứng minh về việc đại diện hợp pháp của mình.
(4) Thời hiệu khiếu nại đã hết.
(5) Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
* Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 46):
(1) Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam của cơ quan, người có thẩm quyền thuộc trách nhiệm kiểm sát của mình. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với việc giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới; quyết định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật.
(2) Cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam nhận được đơn khiếu nại quy định tại Điều 44 của Luật này, thì phải chuyển khiếu nại của người bị tạm giữ, người bị tạm giam cho Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được khiếu nại.
* Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 47):
(1) Người khiếu nại có các quyền sau đây: a) Tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại; Người khiếu nại được trực tiếp khiếu nại hoặc gửi đơn khiếu nại thông qua cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; b) Rút khiếu nại trong bất kỳ thời gian nào của quá trình giải quyết khiếu nại; c) Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại; d) Tiếp tục khiếu nại trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; đ) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
(2) Người khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây: a) Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó; b) Chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
* Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 48):
(1) Người bị khiếu nại có các quyền sau đây: a) Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết định, hành vi trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam bị khiếu nại; b) Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam của mình.
(2) Người bị khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây: a) Giải trình về quyết định, hành vi trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam bị khiếu nại; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu; b) Chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
* Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi giải quyết khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 49):
(1) Tiếp nhận, giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi bị khiếu nại.
(2) Yêu cầu người khiếu nại, người bị khiếu nại giải trình, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc khiếu nại.
(3) Thông báo bằng văn bản về việc thụ lý khiếu nại và gửi quyết định giải quyết cho người khiếu nại và người bị khiếu nại.
(4) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết khiếu nại của mình.
* Thời hạn giải quyết khiếu nại và gửi quyết định giải quyết khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 50):
(1) Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu trong quản lý, thi hành tạm giữ là 02 ngày, trong quản lý, thi hành tạm giam là 05 ngày kể từ ngày thụ lý khiếu nại.
(2) Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai trong quản lý, thi hành tạm giữ là 03 ngày, trong quản lý, thi hành tạm giam là 10 ngày kể từ ngày thụ lý khiếu nại.
(3) Trường hợp cần thiết, đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 05 ngày trong quản lý, thi hành tạm giữ, không quá 20 ngày trong quản lý, thi hành tạm giam kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.
(4) Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định giải quyết khiếu nại, người ra quyết định giải quyết khiếu nại có trách nhiệm gửi quyết định cho người khiếu nại và người bị khiếu nại.
* Hồ sơ giải quyết khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 51):
(1) Hồ sơ giải quyết khiếu nại gồm có: a) Đơn khiếu nại hoặc văn bản ghi nội dung khiếu nại; b) Văn bản giải trình của người bị khiếu nại; c) Biên bản thẩm tra, xác minh, kết luận; d) Quyết định giải quyết khiếu nại; đ) Tài liệu khác có liên quan.
(2) Hồ sơ giải quyết khiếu nại phải được đánh số trang và lưu giữ tại cơ quan giải quyết khiếu nại.
* Trình tự giải quyết khiếu nại lần đầu trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 52):
(1) Sau khi thụ lý khiếu nại, Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu tiến hành xác minh, yêu cầu người khiếu nại, người bị khiếu nại giải trình, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc khiếu nại; làm việc với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại và ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.
(2) Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu có hiệu lực pháp luật nếu trong thời hiệu do Luật này quy định người khiếu nại không khiếu nại tiếp.
* Nội dung quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 53): Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải bao gồm những nội dung sau đây: (1) Tên cơ quan, ngày, tháng, năm ra quyết định; (2) Họ tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại; (3) Nội dung khiếu nại; (4) Kết quả xác minh nội dung khiếu nại; (5) Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại; (6) Kết luận khiếu nại là đúng, đúng một phần hoặc sai; (7) Giữ nguyên, hủy bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, huỷ bỏ một phần quyết định bị khiếu nại hoặc buộc chấm dứt việc thực hiện quyết định, hành vi bị khiếu nại; (8) Việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trái pháp luật gây ra; (9) Hướng dẫn quyền khiếu nại tiếp theo của đương sự.
* Thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 54): (1) Trường hợp tiếp tục khiếu nại thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo bản sao quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. (2) Trong quá trình giải quyết khiếu nại, Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai có quyền yêu cầu Viện kiểm sát giải quyết khiếu nại lần đầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại; làm việc với người bị khiếu nại, người khiếu nại khi cần thiết; xác minh, tiến hành các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để giải quyết khiếu nại. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi nhận được yêu cầu phải thực hiện đúng các yêu cầu đó. Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai có hiệu lực pháp luật.
* Nội dung quyết định giải quyết khiếu nại lần hai trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 55): Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai phải bao gồm những nội dung sau đây: (1) Tên cơ quan, ngày, tháng, năm ra quyết định; (2) Họ tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại; (3) Nội dung khiếu nại; (4) Kết quả xác minh nội dung khiếu nại; (5) Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại; (6) Kết luận về nội dung khiếu nại và việc giải quyết của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu; (7) Giữ nguyên, hủy bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, hủy bỏ một phần quyết định bị khiếu nại hoặc buộc chấm dứt thực hiện quyết định, hành vi bị khiếu nại; (8) Việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trái pháp luật gây ra.
+ Về tố cáo và giải quyết tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (từ Điều 56 đến Điều 61):
* Tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 56): (1) Người bị tạm giữ, người bị tạm giam và mọi người có quyền tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ người có thẩm quyền nào trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. (2) Cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam phải chuyển tố cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được tố cáo.
* Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 57):
(1) Người tố cáo có các quyền sau đây: a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền; b) Yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích của mình; c) Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo; d) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trả thù.
(2) Người tố cáo có các nghĩa vụ sau đây: a) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo; b) Nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình; c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
* Quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 58):
(1) Người bị tố cáo có các quyền sau đây: a) Được thông báo về nội dung tố cáo; b) Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật; c) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được khôi phục danh dự, nhân phẩm, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra; d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
(2) Người bị tố cáo có các nghĩa vụ sau đây: a) Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu; b) Chấp hành quyết định giải quyết tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền; c) Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
* Hồ sơ giải quyết tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 59): (1) Việc giải quyết tố cáo phải được lập thành hồ sơ. Hồ sơ giải quyết tố cáo bao gồm: a) Đơn tố cáo hoặc văn bản ghi nội dung tố cáo; b) Quyết định thụ lý giải quyết tố cáo; c) Biên bản xác minh, kết quả giám định, thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết; d) Văn bản giải trình của người bị tố cáo; đ) Báo cáo kết quả xác minh nội dung tố cáo trong trường hợp người giải quyết tố cáo giao cho người khác tiến hành xác minh; e) Kết luận nội dung tố cáo; g) Quyết định xử lý; h) Tài liệu khác có liên quan. (2) Hồ sơ giải quyết tố cáo phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu. Việc lưu giữ, khai thác, sử dụng hồ sơ giải quyết tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật, bảo đảm không tiết lộ thông tin về người tố cáo.
* Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết tố cáo (Điều 60): (1) Thẩm quyền, thủ tục giải quyết tố cáo của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 23 và Điều 29 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. (2) Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá 90 ngày. (3) Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
* Trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo (Điều 61): (1) Cơ quan, người có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. (2) Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết hoặc giải quyết trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình xây dựng Luật, nhiều ý kiến cho rằng nếu quy định Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết tất cả khiếu nại trong thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam sẽ không bảo đảm nguyên tắc kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước; đồng thời sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại của Viện kiểm sát có thẩm quyền là không đúng pháp luật. Do vậy, cần phải có cơ chế để giải quyết trong trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại của Viện kiểm sát có thẩm quyền. Chính phủ thấy ý kiến đề nghị bổ sung quyền khởi kiện của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là hợp lý để bảo đảm tốt hơn lợi ích hợp pháp của họ trong điều kiện họ đang bị tạm giữ, tạm giam, khó có thể tự mình thực hiện được quyền khiếu nại khi thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm nhưng chưa được giải quyết. Tuy nhiên, do Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: “Quyết định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật”. Do vậy, Luật không bổ sung quy định về quyền khởi kiện của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và việc giải quyết khởi kiện trong thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam.
+ Về trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (từ Điều 62 đến Điều 71).
* Trách nhiệm của Chính phủ: (1) Thống nhất quản lý nhà nước về thi hành tạm giữ, tạm giam trong phạm vi cả nước. (2) Chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. (3) Phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thi hành tạm giữ, tạm giam. (4) Định kỳ hằng năm báo cáo Quốc hội về công tác quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 62).
* Trách nhiệm của Bộ Công an: Bộ Công an chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành tạm giữ, tạm giam và có trách nhiệm sau đây: (1) Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; tổ chức thực hiện pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; (2) Chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; (3) Đình chỉ, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ những quy định về thi hành tạm giữ, tạm giam trái với quy định của Luật này; (4) Quyết định phân bổ kinh phí, bảo đảm điều kiện cho hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (5) Ban hành các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (6) Xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam; (7) Thống kê nhà nước về thi hành tạm giữ, tạm giam; báo cáo Chính phủ về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (8) Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (9) Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế, nhân lực; đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (10) Tổ chức sơ kết, tổng kết, nghiên cứu khoa học về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam;(11). Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 63).
* Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng: (1) Ban hành theo thẩm quyền văn bản pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; tổ chức thực hiện pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân. (2) Chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân. (3) Đình chỉ, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ những quy định về thi hành tạm giữ, tạm giam trái với quy định của Luật này. (4) Quyết định phân bổ kinh phí, bảo đảm điều kiện cho hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân; chỉ đạo cơ sở y tế trong Quân đội nhân dân bố trí khu, buồng riêng để khám bệnh, chữa bệnh cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam. (5) Ban hành các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân. (6) Thống kê về thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân; phối hợp với Bộ Công an trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam. (7) Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng và xử lý vi phạm về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật trong Quân đội nhân dân. (8) Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế nhân lực; đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân. (9) Tổ chức sơ kết, tổng kết, nghiên cứu khoa học về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam trong Quân đội nhân dân (Điều 64).
* Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao: (1) Phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các cơ quan hữu quan khác hướng dẫn thực hiện pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam. (2) Kiểm sát và chỉ đạo Viện kiểm sát các cấp thực hiện việc kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan. (3) Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật (Điều 65).
* Trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao: (1) Phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các cơ quan hữu quan khác hướng dẫn thực hiện pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam. (2) Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật(Điều 66).
* Trách nhiệm của Bộ Y tế: Chỉ đạo các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp huyện, cấp tỉnh xây dựng hoặc bố trí khu, buồng riêng để khám bệnh, chữa bệnh cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chỉ đạo các cơ sở y tế, cơ quan y tế hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ việc phòng, chống dịch bệnh, khám bệnh, chữa bệnh cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam tại các cơ sở giam giữ (Điều 67)
* Trách nhiệm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: Chỉ đạo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và các cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giữ, người bị tạm giam không có thân nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan (Điều 68).
* Trách nhiệm của Bộ Tài chính: Phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng lập dự toán kinh phí bảo đảm điều kiện cho hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 69).
* Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng lập kế hoạch trang bị phương tiện, cơ sở vật chất, kỹ thuật để bảo đảm thi hành Luật này (Điều 70).
* Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: Giao đất, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và quản lý cơ sở giam giữ tại địa phương mình và chỉ đạo các cơ quan nhà nước ở địa phương phối hợp bảo đảm an ninh, an toàn cho cơ sở giam giữ (Điều 71).
2.6. Về điều khoản thi hành (Điều 72, Điều 73) quy định về hiệu lực thi hành của Luật và quy định chi tiết
Điều khoản thi hành được quy định tại Điều 72, Điều 73 với các nội dung: Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Quốc hội giao Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật./.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để Luật nhanh chóng đi vào cuộc sống, sớm phát huy hiệu quả, cần thực hiện tốt Kế hoạch triển khai thi hành Luật thi hành tạm giữ, tạm giam của Thủ tướng Chính phủ (được ban hành kèm theo Quyết định số 372/QĐ-TTg ngày 09/3/2016) với các nội dung chủ yếu sau đây:
1. Tuyên truyền, phổ biến Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam
– Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật nhằm nâng cao trách nhiệm, thống nhất nhận thức cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ làm công tác tạm giữ, tạm giam; cán bộ làm công tác Điều tra tội phạm, Kiểm sát viên, Thẩm phán, cán bộ làm công tác giảng dạy, nghiên cứu pháp luật và cho nhân dân.
– Biên soạn, in, cấp phát sách, tài liệu, tổ chức tập huấn chuyên sâu về Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam cho lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ cơ quan, đơn vị làm công tác tham mưu, trực tiếp làm công tác tạm giữ, tạm giam; cán bộ làm công tác Điều tra tội phạm.
2. Rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về tạm giữ, tạm giam
3. Xây dựng, triển khai thi hành các văn bản quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam. Trước mắt, xây dựng theo trình tự, thủ tục rút gọn trình Chính phủ ban hành các văn bản sau đây:
+ Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam. Thời gian trình: Tháng 4 năm 2016.
+ Nghị định của Chính phủ quy định xây dựng, thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam. Thời gian trình: Tháng 4 năm 2016.
Tiếp đó, tiến hành rà soát, xây dựng, ban hành các Thông tư hướng dẫn thi hành Luật hoặc chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng văn bản hướng dẫn Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
>>>>> Các bài viết quan tâm khác: ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH NĂM 2015
Với slogan: “Là điểm tựa của niềm tin”